Wednesday, October 20, 2021

Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phổ "MUỐN SỐNG LÂU TRƯỚC HẾT PHẢI SẠCH SẼ TỪ THÂN ĐẾN TÂM!" Đó là lời giản dị nhưng được đúc kết cả cuộc đời của một bậc cao tăng năm nay tròn 100 tuổi - Đức Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN - sống giản dị và khiêm cung ở một ngôi chùa làng ở Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội. Ở tuổi 100, trải qua và là chứng nhân của nhiều giai đoạn lịch sử, có lúc rất khắc nghiệt, ngài vẫn giữ đạo phong của một người xuất gia mang dòng họ của Đức Phật. Sau nhiều lần thuyết phục, ngài đã dành cho Báo Giác Ngộ bài phỏng vấn trực tiếp đặc biệt dưới đây, trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả. * Bạch Hòa thượng, người xưa nói, thất thập cổ lai hy, nhưng ngài năm nay nữa sẽ tròn trăm, được xem là bậc đại thụ không chỉ Phật giáo VN, mà cả Phật giáo thế giới. Trong ngót trăm năm ấy, hẳn ngài đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống tu hành. Xin Hòa thượng cho chúng con hay về tâm nguyện cũng như những chặng đường gian khó mà Hòa thượng đã vượt qua? - Tôi xuất gia từ lúc 5 tuổi, được người cô ruột là Ni trưởng Thích nữ Đàm Cơ đưa về chùa Quán ở Ninh Bình. Năm tôi 17 tuổi, được gửi đến tu học tại chùa Viên Minh (chùa Giáng) làm đệ tử Hòa thượng Thích Quảng Tốn. Thuở ấy toàn vùng này là nơi xa xôi vắng vẻ, lau sậy mọc um tùm, thú dữ rắn rết rất nhiều. Tuy ở nơi hẻo lánh, nhưng chùa Viên Minh là tổ đình của sơn môn Đa Bảo, là một trong 3 sơn môn lớn nhất miền Bắc. Tại đây, năm Nhâm Dần 1902, Tổ Thích Nguyên Uẩn mở đạo tràng Viên Minh pháp hội, quy tụ được hơn 100 Tăng Ni giảng dạy và tu học trong 12 năm. Sau đó, Tổ Nguyên Uẩn về cõi Niết-bàn, thì Tổ Quảng Tốn nối chí. Cả đời tôi luôn kính ngưỡng các vị sư tổ chùa Giáng. Các ngài cả đời tận lực vì đạo, cả đời gắng công truyền bá Phật pháp: giảng kinh, thuyết pháp, viết sách, khắc ván in kinh, lập “Viên Minh pháp hội”, không cầu danh lợi. Tôi được như ngày nay cũng là nhờ nhẫn nại noi tấm gương chư Tổ. Từ khi được học giáo pháp của chư Tổ, tôi luôn ghi lòng tạc dạ “giấy rách phải giữ lấy lề”, kiên trì giữ nền nếp của tổ đình, của Viên Minh pháp hội. Gần như cả cuộc đời tu hành của tôi là kinh qua các cuộc chiến tranh, pháp nạn. Những năm kháng chiến chống Pháp, toàn bộ sơn môn bị giặc Pháp đốt hết. Cứ dăm bữa, nửa tháng chúng lại đến càn quét, đốt phá. Làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ. Nhưng tôi xác định, nếu không bám trụ, kiên trì ở lại, không duy trì thì tan nát hết. Cho dù biết rằng ở lại có thể chết, mà ra đi, như một vài huynh đệ của tôi, thì cũng không thể quay về. Mỗi lần chạy loạn đi đâu thì tôi cũng luôn mang theo bên mình những tài sản tinh thần, lịch sử của chư Tổ. Thà chết thì tôi cũng giữ, vì vẫn tin rằng rồi sẽ có cơ phục hồi. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, mình tôi trở về nhìn cảnh tan nát mà lòng xót xa, nhưng phải xây dựng lại để nối dòng sơn môn Đa Bảo. Những năm đầu, người ta tổ chức cho dân đi các khu kinh tế mới. Dân ở lại cũng toàn người nghèo, ai cũng phải bươn chải để kiếm sống, làm gì có tiền hay lương thực đem đến cúng chùa. Chúng tôi tự cày cấy làm ăn, đồng thời tham gia các công việc xã hội, việc làng nước. Tôi trực tiếp tham gia giảng dạy các lớp bình dân học vụ, rồi hộ đê, cứu đê, chống lũ lụt. Việc gì tốt thì làm. Năm 1969 vỡ đê vùng này, nước ngập chùa, kinh sách ướt hết. Canh cánh nỗi lo mất mát, hư hỏng tài liệu, kinh sách của chư Tổ, nhất là những thư tịch độc bản, tôi chạy đua với thời gian, tìm mọi cách để giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Ngay cả khi tôi đã tám mươi tuổi vẫn còn ra đồng làm lụng tự nuôi thân để ngày đêm miệt mài nghiên cứu kinh Phật theo nếp của Tổ xưa. Trải qua nhiều thăng trầm thế sự, tôi cùng các đệ tử phải bền bỉ xây dựng dần lại chùa qua hàng chục năm mới được như ngày nay. Nhờ chư Phật, chư Tổ gia hộ, nhờ Thầy tin tưởng ủy thác, nhờ ký tính huân tập từ nhiều đời mà tôi tạm hoàn thành công nghiệp dịch các bộ kinh Phật. Ân đức của chư Phật, chư Tổ làm sao báo đền cho hết. * Tự cày cấy nuôi thân, chạy đua với thời gian để dịch, nghiên cứu kinh Phật để lại công nghiệp cho Phật giáo nước nhà, mà ngài đã bách niên vẫn không tỏ ra mỏi mệt. Hòa thượng có bí quyết gì trường thọ để truyền lại cho hậu thế? - Tôi không có bí quyết gì. Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệp thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến nay 99 năm, ở chùa 94 năm, thụ Đại giới được 78 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi. Nhưng đã hỏi, thì tôi cũng khuyên muốn sống lâu trước hết phải sạch sẽ từ thân đến tâm. Bốn mùa, các Tăng trong chùa Giáng đều tự trồng lấy rau ăn mà không phải mua ở bên ngoài. Rau trồng ở đây không bón phân vô cơ, không phun thuốc trừ sâu nên đảm bảo luôn sạch, không có chất độc hại. Hàng ngày phải dưỡng sinh, tập thể dục, luôn vận động thân thể, sinh hoạt điều độ thì có thể hỗ trợ để tăng cường sức khỏe cơ thể. Về tinh thần, cần tu tâm dưỡng tính, tiết chế mọi ham muốn dục vọng, sống trong tinh thần lục hòa thì sẽ tăng được tuổi thọ. Nhưng dù sao, cũng không thể loại trừ được vô thường của sinh lão bệnh tử, vì đó là quy luật của mọi kiếp nhân sinh. * Với người thế tục, để có được cuộc sống thanh bần, an lạc dường như khó khăn hơn... Lời dạy nào của Hòa thượng nhằm xây dựng một đời sống an lạc, “trường thọ”, an lạc thực sự? - Đạo nghĩa Lục hòa vốn là điều căn bản của Phật giáo. Thân hòa cùng ở; miệng hòa không cãi nhau; ý hòa cùng vui vẻ; giới hòa cùng tu; kiến hòa cùng giải - thấy biết kiến thức thì chia sẻ cho nhau hiểu; lợi hòa cùng chia - có của cải, lợi ích thì chia cân nhau không ai tranh tham phần hơn cho mình. Vui với đạo pháp mà quên hết phiền não, xóa bỏ đau khổ cho mình và người khác. Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy. * Bạch Hòa thượng, hiện ngài ở ngôi Pháp chủ của Giáo hội nhưng quanh năm vẫn sống và tu ở ngôi chùa làng... - Suốt đời tôi chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi. Tôi tự thấy mình chưa có công đức gì nhiều đối với Giáo hội, nhưng các vị trong Giáo hội nước ta lại ép, đưa tôi lên ngôi Pháp chủ. Lẽ ra, ngôi vị Pháp chủ chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đầy đủ phúc đức, trí tuệ nắm giữ. Miễn cưỡng ngồi lên ngôi cao, đó không phải là phước mà là cái họa cho chúng tôi. Xin các vị đừng gọi tôi là Pháp chủ mà hãy cứ nhìn tôi như một lão tăng thanh bần sống trong ngôi chùa làng là tôi mãn nguyện. Chùa to cảnh lớn dù sao cũng chỉ là phương tiện, nên không quan trọng trong việc quyết định thành tựu của người tu. Tôi cũng được người ta mời trụ trì một vài ngôi chùa lớn, hoặc những ngôi chùa ở trong nội thành Hà Nội với lời khuyên rằng: Hòa thượng già rồi, nên ở những ngôi chùa trong thành phố, gần các bệnh viện lớn để tiện theo dõi, chăm sóc sức khỏe. Nhưng tôi từ chối hết. Vì tôi có trách nhiệm phải nối dòng sơn môn Đa Bảo, duy trì mạng mạch Phật pháp của Viên Minh pháp hội, nên phải bám trụ chùa Giáng này. * Năm qua, trong Phật giáo có nhiều điều không hay được báo chí khai thác, như hiện tượng một số tu sĩ ăn mặn uống rượu và cho đó là điều bình thường. Đạo Phật quan niệm vấn đề đó là như thế nào, bạch Hòa thượng? “Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo”. - Phật giáo theo hệ phái Nam tông (còn gọi là Tiểu thừa) không ăn chay, nhưng hệ phái Bắc tông (Đại thừa) thì thường ăn chay. Xưa kia Đức Phật và chư Tăng đi khất thực, ai cho gì thì các Ngài và chư Tăng dùng cái đó, không đòi hỏi, phân biệt chay mặn. Trong Phật giáo Đại thừa, đối với những người thụ Bồ-tát giới phải chịu 48 điều kiêng cấm, trong đó có nội dung cấm ăn thịt chúng sinh. Thế nhưng thụ Bồ-tát giới theo truyền thống Tây Tạng, không có giới nào cấm ăn thịt cả. Nói vậy để thấy rằng, vấn đề ăn chay hay không là tùy thuộc ở từng hệ phái, từng sơn môn, chứ nói đến chuyện có bắt buộc ăn chay hay không thì Đức Phật không bắt. Riêng sơn môn chùa Giáng (Viên Minh), tất thảy mọi người đều phải ăn chay trường. Nhà chùa chúng tôi ăn chay là vì quan niệm thịt các loài vật với thịt mình thì cũng là thịt thôi. * Vấn đề là một số báo chí đề cập về cách sống, cách nói chuyện kiểu “chầy bửa” như người trần tục của một số Tăng Ni. Là một bậc lãnh đạo Phật giáo VN, ngài nghĩ gì về việc này? - Tôi đọc báo thấy phê phán một số nhà tu đã phóng dật, sống buông thả theo thế gian chứ không phải tu. Tu là gì? Là sửa chữa những tai hại, sai lầm cho mình và cho người. Việc uống bia rượu, sống xa hoa với người tu hành là không nên. Người xuất gia nếu không dụng công tu tập thì chỉ là người tại gia ở chùa. Kính mong quý vị Tăng Ni nếu thấy mình không có đủ sự tinh tấn tu trì thì nên xả giới hoàn tục, kẻo lâm chung đọa vào ba nẻo ác. Trước đây chưa có Giáo hội, chỉ có các sơn môn, tổ đình, ai theo hệ phái nào thì cứ theo đó mà tu. Từng sơn môn học theo giáo lý của Đức Phật rồi lại truyền dạy cho mọi người theo Kinh, theo Luật, theo Luận. Luật thì nghiêm, luận thì sáng suốt, kinh thì thẳng thắn để đưa người tiến hóa. Từ nhiều năm nay tất cả các sơn môn, các hệ phái Phật giáo nước nhà đã được thống nhất trong một tổ chức Giáo hội Phật giáo VN. Giáo hội đã đoàn kết được Tăng Ni cả nước để cùng thực hiện các Phật sự lớn không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở cả tầm quốc tế. Tuy vậy, việc duy trì luật lệ trong từng sơn môn có phần lơi lỏng, đó là nguyên nhân khiến một bộ phận Tăng Ni không được kiềm thúc vào khuôn khổ, xa rời giới luật. Trong sơn môn chùa Giáng, chúng tôi duy trì luật lệ rất nghiêm, các Tăng không được sống buông thả, xa hoa mà phải luôn tu sửa mình. Tôi cũng luôn dạy các đệ tử không được lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, mà phải tự mình vừa cày cấy làm ăn, vừa truyền bá giáo lý đạo Phật đem lại lợi lạc cho đời. * Năm mới, qua Báo Giác Ngộ, Hòa thượng có lời nhắn nhủ, chúc Tết gì gửi đến Tăng Ni, Phật tử cả nước? - Kính mong các bậc tu hành luôn gắng tâm, dụng sức giữ gìn lấy cơ nghiệp của chư Tổ, giữ gìn lấy hạnh nguyện, Chính pháp của chư Phật. Chúc chư tôn đức Trưởng lão, chư quý vị Tăng Ni, cư sĩ Phật tử và mọi người dân khỏe mạnh trường thọ, thân tâm an lạc, có sức, có tuệ, tinh tiến tu tập, trau dồi giới hạnh, nghiêm trì giới luật, xiển dương Chính pháp, hòa hợp Tăng-già, góp phần xây dựng đất nước hòa bình, an lạc. * Kính cảm ơn Hòa thượng! Chu Minh Khôi phỏng vấn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ Chu Minh Khôi (thực hiện) (Giác Ngộ Xuân 2016) Related Links: https://thuvienhoasen.org/a36716/da-la-su-thi-phai-la-nguoi-khuon-mau https://thuvienhoasen.org/a24738/duc-phap-chu-ghpgvn-dang-tung-vung-chai-giua-tuyet-suong ĐỨC PHÁP CHỦ GHPGVN: DÁNG TÙNG VỮNG CHÃI GIỮA TUYẾT SƯƠNG Chương Phượng
Tam quan chùa Viên Minh, trú xứ của Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ Ảnh: C.M.K Người viết tìm đến tổ đình Giáng (dân gian quen gọi là chùa Ráng, tên chữ Viên Minh tự) vào một ngày cuối năm 2015. Trong quá trình viết báo về đề tài Phật giáo, người viết có cơ duyên được gặp và thỉnh giáo với một số chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội Phật giáo nước nhà, nhưng đây là lần đầu tiên đi thỉnh vấn Đức Pháp chủ, bậc chân tu nếu tính theo âm lịch thì năm nay tròn 100 tuổi. Ngài không dùng điện thoại, nên người viết không biết làm cách nào liên lạc, để bạch xin hẹn trước. Từ Hà Nội xuôi Quốc lộ 1A về phía Nam chừng 35 cây số là đến thị trấn Phú Xuyên. Hỏi đường đến chùa “Ráng”, người dân nói rẽ phải đi qua cây đa Giời ơi chừng 7km là tới. Quả nhiên, trên đường sừng sững cây đa di sản mấy trăm năm tuổi, với muôn trùng rễ thụ chọc thẳng xuống đất. Sở dĩ có tên Giời ơi, là vì xưa kia suốt con đường đất dài heo hút không có nhà cửa, ai đi qua cũng đều bị cướp và chỉ biết kêu than “Giời ơi” dưới gốc đa. Đi đến tận bờ đê sông Hồng, mới thấy chùa Giáng hiện lên một mình giữa cánh đồng lúa rộng mênh mông trơ gốc rạ. Cảm giác ngỡ ngàng thoắt hiện, bởi chưa đến người viết cứ hình dung bậc Hòa thượng ở ngôi cao nhất của Giáo hội thì sẽ trụ trì ngôi chùa hoành tráng, có thể nhìn thấy từ rất xa hàng cây số. Nào ngờ tổ đình Giáng lại giản dị và khiêm nhường đến vậy. Một ngôi cổ tự với mái ngói cong cong xếp chồng lên nhau, trông xa xa như một đóa sen giữa xanh ngắt một vùng bờ bãi. Bước qua cổng chùa, được đi giữa khu vườn rộng miên man những hàng khoai tây thẳng tắp, những luống cải bẹ, rau muống, su hào đang bén lá xanh non... gợi cho người viết hình ảnh đầu tiên về cuộc sống thanh bạch của bậc chân tu. Không gian vắng vẻ đến lạ thường. Trừ Bảo điện, Tổ đường, Bảo tháp là uy nghi nhờ mới được trùng tu, còn lại từ nhà khách, khu Tăng xá, bếp ăn, trai đường, lối đi vẫn chỉ là những mái nhà đơn sơ như cảnh chợ quê Bắc Bộ mấy mươi năm trước. https://thuvienhoasen.org/images/file/LoWIXT8x0wgBAGt1/thich-pho-tue.jpg “Tôi ngẫm thấy, “Tre già thì măng mọc”, nói như vậy cũng chỉ là vu khoát, cần nói thêm rằng: tre già phải được dùng vào việc có ích và măng mọc cũng cần có hàng có lối, cần được chăm sóc và bảo vệ thì mới thẳng mới đẹp mới có ích cho Đạo cho Đời. Theo tôi, nên đa dạng hơn nữa các hình thức giáo dục, đào tạo Tăng Ni, nhất là mô hình các tổ đình truyền thống. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò nhất thống của Quốc gia và Giáo hội. Thống nhất nên trên cơ sở sự đa dạng. Với Phật giáo thì hòa hợp Tăng là quan trọng nhất. Các ràng buộc hành chính, mệnh lệnh ngoài giáo pháp chỉ là nhất thời mà thôi. Đặc biệt nên kiên trì giữ gìn nền nếp các trường An cư kết hạ. Đó là nơi không chỉ học tập mà quan trọng là tu tập và thực hành nếp sống cộng đồng, dân chủ, có kỷ cương, “lục hòa” của Tăng, Ni chúng”. Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ Tìm gặp chư Tăng, được biết Đức Pháp chủ đang tọa thiền trong cốc bát giác phía sau chùa. Hàng ngày, ngài đều tụng kinh Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà nhiều giờ đồng hồ liền không đứng dậy, có hôm ngồi suốt ngày đêm niệm Phật. Mỗi lần như vậy, Tăng chúng ở chùa không dám phiền động đến ngài, khách đến thăm cũng không dám bạch báo. Chờ suốt cả buổi sáng, không thấy Đức Pháp chủ ra khỏi cốc, biết là chưa đủ duyên để được gặp ngài, người viết đành chào chư Tăng để ra về. Đại đức Thích Nguyên Quang, một trong những đệ tử của ngài, khuyên: “Hôm khác cứ đến, nếu có duyên thì sẽ gặp được thôi!”. Đi xa hàng chục cây số trong mưa rét, mà không được gặp Đức Pháp chủ, đành tự nhủ có lẽ chư Phật, chư Tổ thử thách sự kiên nhẫn của mình đây. Vài ngày sau người viết trở lại chùa, lần này may mắn được diện kiến Đức Pháp chủ. Phải hôm trời rét đậm, gió bấc hun hút, Hòa thượng khoác chiếc áo dạ cũ không che hết được chiếc áo nâu sồng giản dị bên trong. Trông vị sư già như một lão nông. Trong dáng khô gầy, khắc khổ của một lão Tăng đã ở tuổi bách niên, nhưng đôi mắt vẫn lộ rõ vẻ tinh anh và nụ cười hiền hậu, thanh thoát, bước đi nhàn nhã khoan thai, một phong thái mà không dễ ai, ngót trăm tuổi còn giữ được. Thỉnh vấn Đức Pháp chủ, ngài trả lời rành rọt, khúc chiết từng câu, thể hiện sự minh mẫn như một người trung niên, càng làm người viết ngỡ ngàng trước trí tuệ lớn lao của một bậc cao tăng thạc đức. Nói câu nào, Đức Pháp chủ cũng cười rất tươi. Từ gương mặt đến giọng nói đều toát lên một vẻ từ bi, hỷ xả. Ngài sinh năm 1917 tại xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Năm 1926 xuất gia tại chùa Quán (Ninh Bình). Năm 1932 thọ giới Sa-di tại trường hạ chùa Đông Cao, tỉnh Nam Định. Năm 1934 bắt đầu tu học tại chùa Viên Minh, tỉnh Hà Tây. Năm 1937 thọ giới Tỳ-kheo do ngài Thích Quảng Tốn làm Hòa thượng đầu đàn. Từ năm 1953 đến 1958 tu học và hoằng pháp tại chùa Kim Đới - Hải Phòng. Từ tháng 10-1958 đến nay trụ trì chùa Viên Minh... Ngài kể chuyện xuất gia từ khi mới 5 tuổi, trên đường tu học, dấu chân của ngài đã trải khắp các tổ đình vùng châu thổ sông Hồng. Trải qua những ngày quê hương bị giặc Pháp chiếm đóng, làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ, ngài vẫn một lòng son sắt với cửa Phật. Người viết càng ngạc nhiên hơn, khi Hòa thượng cho biết ngài chưa từng học qua một trường lớp chính quy nào. Tất thảy vốn kiến thức có được đều nhờ kiên trì tự học. Hẳn ai cũng biết, ngài là vị giáo phẩm nổi tiếng uyên thâm về Phật học và Hán học. Sự nghiệp phiên dịch kinh sách, trước tác của ngài nổi bật với các tác phẩm: Kinh Bách dụ, Phật Tổ tam kinh, Bát-nhã dư âm, Đại từ điển Phật học, Đề cương kinh Pháp hoa, Phật học là tuệ học, biên tậpĐại tạng kinh VN, phiên dịch và hiệu đính Luật Tứ phần… Ngài từng là Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây; từng kinh qua Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học VN tại Hà Nội, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Từ tháng 12-2007 đến nay: đảm trách ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN. Đến nay đã 80 năm ngài an trụ ở chùa Giáng nên được Phật tử mọi miền gọi là Tổ Giáng. Trong mắt người dân vùng này, Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ không chỉ là một vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức hạnh vẹn toàn mà còn là một nông dân thực thụ với đức tính hay lam hay làm, cần cù và giản dị. Bởi vì suốt cuộc đời, ngoài giờ hành lễ hay đi hoằng pháp, Hòa thượng luôn cùng môn đệ xắn tay cày cấy nuôi thân, đến 80 tuổi mới thôi. Nay ở tuổi bách niên, ngài không còn ra đồng trồng lúa được nữa, nhưng hàng ngày vẫn làm vườn, dọn dẹp trong chùa.
“Tôi ngẫm thấy, “Tre già thì măng mọc”, nói như vậy cũng chỉ là vu khoát, cần nói thêm rằng: tre già phải được dùng vào việc có ích và măng mọc cũng cần có hàng có lối, cần được chăm sóc và bảo vệ thì mới thẳng mới đẹp mới có ích cho Đạo cho Đời. Theo tôi, nên đa dạng hơn nữa các hình thức giáo dục, đào tạo Tăng Ni, nhất là mô hình các tổ đình truyền thống. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò nhất thống của Quốc gia và Giáo hội. Thống nhất nên trên cơ sở sự đa dạng. Với Phật giáo thì hòa hợp Tăng là quan trọng nhất. Các ràng buộc hành chính, mệnh lệnh ngoài giáo pháp chỉ là nhất thời mà thôi. Đặc biệt nên kiên trì giữ gìn nền nếp các trường An cư kết hạ. Đó là nơi không chỉ học tập mà quan trọng là tu tập và thực hành nếp sống cộng đồng, dân chủ, có kỷ cương, “lục hòa” của Tăng, Ni chúng”. Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ Từ biệt Trưởng lão Hòa thượng, người viết nhìn theo dáng ngài bước đi khoan thai trên nền gạch đỏ, trong tấm khoác giản dị, giữa trời gió bấc. Gió lạnh đến thấu xương, khiến những tán cây cũng run lên bần bật, mà dáng của cụ vững chãi đến lạ lùng, như cây tùng cây bách thường trụ giữa tuyết sương mưa gió. Chợt nghĩ, không biết trên thế giới này có vị Pháp chủ nào lại giản dị mà uyên bác đến thế không. Điều đọng lại trong lòng mỗi người đến đây là sự cảm phục và tôn kính sâu sắc đối với Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ - Đệ tam Pháp chủ GHPGVN, người 100 tuổi đời, vẫn ngày đêm mang giáo lý nhà Phật, đức hạnh cao dày của bậc chân tu giáo hóa chúng sinh. Chương Phượng (Giác Ngộ)