Friday, April 26, 2024

KHI KHÓI LỬA MẶT TRẬN LỤI TÀN

KHI KHÓI LỬA MẶT TRẬN LỤI TÀN Nguyên Giác https://thuvienhoasen.org/a41065/khi-khoi-lua-mat-tran-lui-tan Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất. Như thế, mặt trận này nằm ngay trong tâm mỗi người, và cũng là nơi tương tác của tâm với cảnh. Thắng được chính mình như thế, mới là chiến thắng tối thượng. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật giải thích trong hai bài kệ sau, theo bản dịch của Thầy Minh Châu. 103. "Dầu tại bãi chiến trường Thắng ngàn ngàn quân địch, Tự thắng mình tốt hơn, Thật chiến thắng tối thượng." 104. "Tự thắng, tốt đẹp hơn, Hơn chiến thắng người khác. Người khéo điều phục mình, Thường sống tự chế ngự." Chúng ta sống trong một thế giới đầy chiến tranh. Một thời mở ra các trang báo, đều đọc thấy các bản tin về chiến tranh. Đối với nhân loại, hình như chưa có năm nào thế giới hoàn toàn hòa bình, kể cả thời rất xa xưa, thời mà chiến binh vẫn còn ngồi trên lưng ngựa, hay phải đi bộ. Nhưng nên thấy rằng chiến tranh là những chuyện phù phiếm nhất trong đời người. Đức Phật cấm nói các chuyện như thế. Đức Phật cấm nói chuyện vua chúa, chuyện đại thần, chuyện binh lính, chuyện đàn bà, chuyện đàn ông, chuyện người chết… Nghĩa là, rất nhiều chuyện chúng ta gặp trong đời đều là chuyện nhảm, chuyện phù phiếm, chẳng cần phải nói, bất kể chuyện gọi vong, chuyện giải vong… Tại sao? Bởi vì cuộc chiến nhiếp phục tham sân si gay go lắm, Hễ sơ suất trong khoảnh khắc, các niệm tham sân si có thể lôi kéo chúng ta đi lạc nhiều kiếp. Do vậy, ngay tới vua, các bậc đại thần… cũng không là cái gì để người tu phải để tâm vào. Trong Kinh SN 56.10, trong bản dịch của Thầy Minh Châu, Đức Phật dạy rằng đừng nói các chuyện nhảm, như sau: “Này các Tỷ-kheo, chớ có nói những câu chuyện của loài súc sanh, như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về binh lính, câu chuyện về hãi hùng, câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về vải mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng xóm, câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông, câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, các câu chuyện biến trạng của thế giới, câu chuyện về biến trạng của đại dương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu. Vì sao? Những câu chuyện này, này các Tỷ-kheo, không đưa đến mục đích, không phải căn bản cho Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.” Vậy thì, nếu có bạn trẻ nào đang mặc áo lính, nên suy nghĩ như thế nào. Dĩ nhiên, nhiệm vụ thì không tránh được, không chạy đâu được, nhưng nên tu học tinh tấn, và giữ gìn tâm từ bi đối với tất cả các chúng sanh. Đọc lại các truyện bản sanh, chúng ta thấy rằng Đức Phật cũng từng xông pha trong các trận binh lửa. Thí dụ, như truyện bản sanh Ajanna Jataka số 24, khi ngài là một chiến mã. Lúc đó, Bồ tát (tiền thân Đức Phật) từng là ngựa chiến của một vị vua. Ngựa chiến này được vua cho một cuộc sống xa hoa hơn hầu hết người dân. Thức ăn của ngựa chiến được đặt trong một chiếc đĩa vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền, và chuồng ngựa có xông hương thơm bốn mùi và được trang trí bằng những tấm màn màu đỏ thẫm và những vòng hoa. Một lần nọ, bảy vị vua từ các vùng đất lân cận đã bao vây vương quốc nơi Bồ tát sống và ra lệnh cho nhà vua này đầu hàng, nếu không sẽ phải đối mặt với chiến tranh. Nhà vua thảo luận chiến lược với các cố vấn của mình và họ quyết định cách hành động tốt nhất là cử người đánh xe hàng đầu ra tác chiến với cả bảy đội quân. Nếu phương pháp này thất bại, họ sẽ xem xét kế hoạch khác. Người đánh xe, cùng với Bồ-tát và chiến mã em cùng kéo xe, đã chiến đấu một cách anh hùng, bắt được sáu vị vua, và đưa họ trở về cung điện làm tù nhân. Nhưng khi bắt được vị vua thứ sáu, Bồ tát bị thương. Người đánh xe quay trở lại cổng cung điện và bắt đầu mặc áo giáp cho một chiến mã khác. Khi Bồ tát nhìn thấy điều này, ngài tự nghĩ rằng không có con ngựa chiến nào khác uy dũng bằng ngài: nếu ngài không quay lại trận chiến, người đánh xe và nhà vua chắc chắn sẽ bị giết và vương quốc sẽ sụp đổ. Vì vậy, Bồ tát [chiến mã] bảo người đánh xe hãy băng vết thương để cầm máu, rồi họ lại lên đường và bắt được vị vua đối thủ cuối cùng. Vương quốc được cứu, nhà vua bước ra chào đón họ. Bồ Tát (thời xa xưa, chiến mã biết nói tiếng người) mới khẩn cầu nhà vua đừng giết bảy vị vua bị bắt mà hãy bắt họ thề sẽ không bao giờ gây chiến với ngài nữa. Sau đó, sau khi bảo nhà vua hãy cai trị bằng chánh nghĩa và từ bi trong suốt quãng đời còn lại của mình, Bồ tát viên tịch. Tại sao Đức Phật kể lại chuyện tiền kiếp trên? Bởi vì lúc đó, có một môn đệ của Đức Phật đột nhiên lười biếng, tu học lui sụt, thế là Đức Phật kể lại chuyện bản sanh khi ngài còn là một chiến mã, để khuyến khích tinh tấn tu học. Sau khi nghe kể xong, vị học trò kia chứng quả A La Hán. Vị vua trong truyện là tiền kiếp của ngài Ananda, vị sư thị giả của Đức Phật. Chúng ta nên nhớ rằng, nghiệp binh lửa có khi không mấy người thoát được. Bởi vì, cõi này của chúng ta là ngôi nhà lửa. Nếu bạn đang là công dân các nước đang chiến tranh, hay thậm chí đang là công dân các nước bên bờ chiến tranh, thí dụ như Đài Loan và Hàn Quốc, nghiệp lính là toàn dân. Do vậy, nói rằng đừng nói chuyện chiến tranh thì bất khả. Vấn đề là, tất cả những chuyện nên nhìn dưới con mắt nhà Phật, để kham nhẫn, để từ bi, và để tận lực giữ giới trong khả năng từng người. Bởi vì không bao giờ có chuyện các nhà sư khuyến khích người dân trốn lính. Hãy nhớ rằng, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã từng động viên toàn dân để toàn lực cứu nước, cứu dân. Bây giờ, xin mời đọc một tích truyện khác. Đó là truyện bản sanh Pancavudha Jataka số 55. Trong kiếp đó, tiền thân Đức Phật là một vị thái tử. Ngay sau khi Bồ tát ra đời, tám trăm tu sĩ Bà-la-môn đã tiên đoán rằng ngài sẽ vừa là một nhà lãnh đạo đầy quyền lực, đức hạnh nghiêm túc, và là một chiến binh tài năng. Khi Bồ tát tròn mười sáu tuổi, cha ngài gửi ngài đến học ở Taxila. Sau khi buổi học kết thúc, vị thầy đưa cho Bồ tát một bộ gồm năm vũ khí và ngài lên đường trở về nhà. Trên đường đi, Bồ tát gặp một khu rừng nơi một con yêu tinh đang cư trú và giết chết tất cả những người yêu tinh này gặp. Mặc dù đã được cảnh báo về mối nguy hiểm này, Bồ tát vẫn không hề sợ hãi và bước vào rừng thay vì đi vòng quanh. Con yêu tinh cao như cây cọ và trông rất khủng khiếp, nhưng khi Bồ tát nhìn thấy nó, nó không chạy. Bồ tát bắn 50 mũi tên độc vào con yêu tinh, đều dính vào bộ lông dày của yêu tinh và không có mũi tên nào xuyên nổi qua da. Khi con yêu tinh tấn công Bồ tát, ngài đánh trả bằng thanh kiếm nhưng kiếm không thể xuyên qua bộ lông. Sau đó, Bồ tát dùng cây gậy của mình đập con yêu tinh, thì cây gậy này cũng bị mắc kẹt trong bộ lông xù xì của con yêu tinh. Bồ tát hét vào mặt yêu tinh rằng Bô tát sẽ nghiền nát yêu tinh này thành bụi và tung một cú đấm bằng tay phải. Nhưng, giống như các vũ khí khác, không gì xuyên qua bộ lông dày của yêu tinh, và Bồ tát tiếp tục chiến đấu, bằng tay trái, chân phải, chân trái và cả đầu nữa. Con yêu tinh khâm phục trước lòng can đảm phi thường của Bồ tát và nhận ra rằng Bồ tát không phải là người bình thường nên đã cho ngài ra đi tự do. Nhưng trước khi rời đi, Bồ tát giải thích rằng yêu tinh đã sống một cuộc sống sát nhân đầy đau khổ, dầy đặc tội lỗi từ những ngày quá khứ. Con yêu tinh xúc động, hứa rằng sẽ sống một cuộc sống tốt đẹp từ đó trở đi và yêu tình thề sẽ làm như vậy. Bồ tát trở về cung điện, một thời gian sau trở thành vua, cai trị với đức hạnh và độ lượng. Lý do Đức Phật kể truyện bản sanh này, bởi vì có một môn đệ lười biếng, nên kể truyện này để kêu gọi tinh tấn, rằng bản thân phải tu luyện cho giỏi, cho siêng, mới đủ sức đánh với các con yêu tinh trên đời này, và vũ khí tận cùng vẫn là lòng từ bi. Con yêu tinh chính là tiền thân của Angulimala, một tên cướp đáng sợ, kẻ đã chặt ngón tay của mỗi người mà y giết và đeo chúng quanh cổ, và về đã trở thành một đệ tử giác ngộ của Đức Phật. Chiến tranh là một nghiệp chung của một đất nước, hay của một khu vực. Chúng ta là Phật tử tại Hoa Kỳ, là những người yêu hòa bình và đang sống trong một xã hội hòa bình, nhưng cũng không chắc gì tương lai Chiến tranh Thế giới sẽ không bùng nổ. Trong khi đó, giới trẻ gốc Việt tại Hoa Kỳ cũng đã, đang và sẽ có mặt trong quân đội Hoa Kỳ. Tất nhiên, các em sẽ có những suy nghĩ riêng, nhưng trong cương vị những phụ huynh Phật tử, chúng ta cũng cần nhìn được vấn đề trong đôi mắt của Chánh pháp, để khi các em cần lời khuyên, chúng ta sẽ không nói nhầm lần. Riêng biệt, tự chúng ta cũng phải lo tu học cho vững vàng, để hướng dẫn được các em, rồi nghiệp tới đâu thì tùy, người Phật tử vẫn liên tục cố gắng tu học không rời. Trên đài PBS, chương trình Religion & Ethics Newsweekly trong năm 2003 đã phỏng vấn Thầy Thích Nhất Hạnh về cái nhìn của Phật giáo về bạo lực. Chương trình được chép lại trên báo World Religion News, ấn bản ngày 15/5/2015, qua bài viết “Thich Nhat Hanh Talks Violence and How Buddhists and Judeo-Christians are Connected” trong đó có một câu hỏi từ Bob Abernethy nêu lên, và được nhà sư nổi tiếng của Việt Nam trả lời, trích dịch từ bản tiếng Anh, như sau. “Hỏi: Có khi nào cần thiết phải sử dụng bạo lực để bảo vệ bản thân, bảo vệ gia đình hoặc đất nước của mình hay không? Đáp: Nếu bạn thấy ai đó đang tìm cách bắn, để hủy diệt, bạn phải gắng hết sức của bạn để ngăn chặn người đó làm như thế. Bạn phải tận lực ngăn cản. Nhưng bạn phải làm điều đó vì lòng từ bi, vì thiện ý muốn bảo vệ, chứ không phải vì giận dữ. Đó là điểm cốt tủy. Nếu bạn cần dùng tới vũ lực thì bạn phải dùng vũ lực, nhưng bạn phải bảo đảm rằng bạn hành động vì lòng từ bi và vì thiện ý muốn bảo vệ, chứ không phải vì giận dữ.” (Hết trích dịch) Cả thế giới đều biết rằng Phật giáo yêu chuộng hòa bình. Do vậy, một câu hỏi thường gặp tại Hoa Kỳ là, làm thế nào một người thực hành Phật pháp mà có thể ở trong quân đội được. Bài viết nhan đề "Do you believe a person can practice Buddhism and be in the military?" (Bạn có tin rằng một người có thể tu học Phật pháp và là một quân nhân không?) trên tạp chí Lion's Roar ấn bản ngày 1 tháng 3/2007 đã phỏng vấn 3 vị thầy Hoa Kỳ. Nơi đây, chúng ta trích dịch lời của Thầy Ringu Tulku Rinpoche, một Lạt ma thuộc dòng Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Thầy Ringu Tulku Rinpoche trả lời như sau: “Thực hành Pháp không dành cho bất kỳ nghề nghiệp, giới tính, lục địa, màu da, quốc gia, đẳng cấp hay cộng đồng cụ thể nào. Thực hành Pháp dành cho tất cả mọi người và bất kỳ ai cũng có thể thực hành nó ở mức độ nào đó mà họ cảm thấy thoải mái. Một người trong binh nghiệp có thể thực hành Phật pháp giống như bất kỳ ai khác. Dĩ nhiên, một số Phật tử có thể do dự trong việc chọn binh nghiệp, vì nó đòi hỏi phải giết khi thực sự cần thiết. Nhưng mục đích chính của quân đội là bảo vệ đất nước và duy trì hòa bình. Và trong nhiều trường hợp, đây thậm chí không phải là một sự lựa chọn. Dù nghề nghiệp của một người là gì, người đó có thể làm công việc đó một cách lương thiện, từ bi và vì lợi ích của người khác trong trái tim mình. Chánh mạng là rất quan trọng, và thật tốt khi cố gắng tìm một nghề mang lại hạnh phúc tốt hơn cho nhiều người và không liên quan đến việc gây ra những điều có hại, nhưng điều đó không có nghĩa là một người không trong một nghề hoàn toàn bất bạo động thì không thể tu tập Phật pháp. Tôi nghĩ việc thực hành Pháp thậm chí còn cần thiết hơn đối với những người trải qua những biến cố đau thương, như trải qua những trận chiến quân sự có nhiều chết chóc và đau khổ. Tu học Phật pháp không phải là làm việc này hay làm việc kia. Nó chính là về cách bạn sống cuộc sống của bạn trong từng khoảnh khắc này tới khoảnh khắc kia, từng ngày, trong bất kỳ hoàn cảnh nào bạn đang hiện trú. Nó chính là về cách bạn chuyển hóa cách bạn hiện hữu, cảm xúc, phản ứng và khuynh hướng thói quen của bạn. Bất bạo động là tinh yếu của Phật giáo, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải đầu hàng trước bất công, hay không thể nói hay làm bất cứ điều gì nếu người dân đang phải gánh chịu bạo hành thảm khốc. Ý niệm về một vị Bồ Tát là phải uy dũng và can đảm, làm việc và chiến đấu vì lợi ích của chúng sinh mà trong tâm không sân hận bất kỳ ai. Khi ai đó làm hại bạn, bạn không nên ghét người kia, mà nên hiểu rằng người đó đang bị cơn giận chi phối, và trong khi những hành động tiêu cực của người đó đang làm hại bạn một chút, các hành động đó còn làm hại anh ta nhiều hơn. Anh ta không nên là đối tượng của hận thù mà phải là của lòng từ bi. Do vậy, bạn vẫn có thể yêu thương anh ta và giữ được tâm không hận thù. Điều đó không có nghĩa là chúng ta nên khuyến khích người đó hành động xấu và cho phép anh ta gây hại cho mọi người xung quanh, kể cả cho chính anh ta. Tìm cách ngăn cản anh ta thực hiện những hành động tiêu cực, ngay cả với một số sức mạnh, có lẽ sẽ hữu ích hơn cho anh ta.” (Hết trích dịch) Khó, thực sự là khó để sống như một Phật tử. Nhưng đây là con đường hạnh phúc nhất trên đời này. Nếu có bạn trẻ nào còn do dự, nghĩ rằng Phật pháp mênh mông, chưa biết nên tu học thế nào cho tiện dụng với đời sống bận rộn trong quân ngũ, xin mời thường trực nhìn vào tâm để thấy rằng Niết bàn chính là tâm không tham, không sân, không si. Bạn có thể nhìn tâm thường trực như thế dù là ở trên tàu chiến, trên quân xa, hay ở chiến hào. Từ bi cũng sẽ tự động lớn dậy theo tâm này. Đức Phật cũng dạy một pháp nhìn tâm đơn giản khác, mà nhiều bạn có thể sẽ thấy thích nghi. Trọn cuốn Kinh Kim Cương được tóm gọn trong 4 câu Pháp Cú sau, rằng hãy thấy trong tâm đừng nắm giữ, đừng nương tựa, đừng dính mắc bất cứ thứ gì trong quá khứ, vị lai và cả hiện tại. Bản dịch của Thầy Minh Châu như sau: 421 "Ai quá, hiện, vị lai Không một sở hữu gì, Không sở hữu không nắm, Ta gọi Bà-la-môn." Bất kỳ ai sống thường trực như thế, khói lửa sẽ sớm lụi tàn trong tâm của bạn. Nguyên Giác (Viết trong những ngày cuối tháng 4/2024)

Thursday, April 25, 2024

30/4/1975

Giải phóng miền Nam 30/4/1975; Những thước phim do phóng viên Pháp thực hiện https://www.youtube.com/watch?v=b05ur5DW8z4 THVL l Phim tài liệu: 30/4/1975 - Một góc nhìn khác https://www.youtube.com/watch?v=IZKwdoINPvM 30-4-1975: Những khoảnh khắc lịch sử tại Hà Nội | VTV24 https://www.youtube.com/watch?v=Rf6icc2p_98 Hào khí tháng Tư | VTV24 https://www.youtube.com/watch?v=6w39MvtEgpA Phóng sự chiến tranh Việt Nam https://www.youtube.com/watch?v=g_zsE-e_yek

MẸ TÔI

MẸ TÔI https://www.youtube.com/watch?v=GS1JgaBBN2Y"

Friday, April 19, 2024

Võ Quang Yến (25.6.1928 – 10.4.2024)

Võ Quang Yến (25.6.1928 – 10.4.2024) Người đam mê khoa học và yêu Huế Thưở học sinh những năm 50 ở Sài Gòn, tôi được đọc nhiều bài của tác giả Võ Quang Yến trên tạp chí Bách Khoa. Sang Pháp được vài năm, tôi tập tành viết cho tạp chí Khoa học Kỹ thuật của Hội cùng tên mà anh Yến làm chủ tịch, được mời tham gia đại hội của Hội dự trù ở nhà Đông Dương, cư xá quốc tế đại học, đường Jourdan, quận 14. Chỉ thoáng gặp anh : cuộc đại hội không thành, Hội bị chính quyền De Gaulle giải tán. Đó là khoảng cuối năm 1960, nếu tôi nhớ không lầm. Trước đó, năm 1959, họ đã giải tán hội Liên hiệp Việt kiều, trong khi suốt những năm kháng chiến, phong trào Việt kiều vẫn hoạt động mạnh mẽ, khi công khai, lúc bán công khai hay trong vòng bí mật. Lý do “dễ hiểu” : chính quyền Pháp muốn giao hảo với chính quyền Ngô Đình Diệm, muốn bảo vệ quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở miền Nam nước ta. Nhưng từ đó mà giải tán cả một hiệp hội thuần túy khoa học kỹ thuật thì cũng hơi bị “khó hiểu”. Biết đâu nhờ thế mà anh Yến có thời giờ tập trung nghiên cứu trong ngành hóa học hữu cơ. Năm 1962, anh bảo vệ luận án tiến sĩ “Contribution à l’étude des additions sur les composés acétyléniques : chloroformylation des arylacétyléniques : hydratation des diacétyléniques” (mà Google dịch là : Góp phần nghiên cứu việc bổ sung các hợp chất acetylenic: cloroformylation của arylacetylenics: hydrat hóa diacetyls). Đặc nhiệm nghiên cứu rồi giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học (CNRS), anh giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu tại trường Cao đẳng quốc gia hóa học Paris (ENSCP). Đam mê khoa học gắn kết với tình nghĩa phu thê : chị Liliane Kouscher là đồng nghiệp, cùng lãnh vực, giáo sư trường ENSCP, rồi Đại học Pierre & Marie Curie (Paris VI), và say mê ngôn ngữ & văn hóa Việt Nam, say mê quê hương xứ Huế của chồng. Anh Võ Quang Yến là sáng lập viên và nhiều năm làm chủ tịch Hội những người yêu Huế. Cùng với những bài phổ biến khoa học và văn hóa đăng trên các báo, Võ Quang Yến là tác giả của nhiều cuốn sách : - Nói chuyện khoa học, Saigon, Cơ sở Phạm Quang Khai, Tủ sách Tiến Bộ, 1968. - Vũ trụ và không gian, Saigon, Cơ sở Phạm Quang Khai, Tủ sách Tiến Bộ, 1968. - Giáo dục tính phái, Saigon, Lửa Thiêng, 1973. - Gửi thương về Huế, Hà Nội, Văn Học, 2006. - Cây nhà lá vườn, Đà Nẵng, 2014-2015. - Champa một thuở, Paris, Chim Việt Cành Nam , 2018.- - L’alimentation de la salangane à nid blanc Aerodramus fuciphagus germani au Viêt Nam, 28ème Colloque francophone d’ornithologie, Namur 28-30 nov. 2003 (viết chung với J.F. Voisin và Nguyễn Quang Phách) Anh là cộng tác viên thường trực của trang mạng Chim Việt Cành Nam (gần 100 bài viết) cũng như của Diễn Đàn (hơn 90 bài). Anh viết không ngừng nghỉ, ngay cả trong những năm anh chị vào sống ở Viện dưỡng lão Sceaux (mà anh gọi là Xô Thành), và sau ngày chị Liliane từ trần (năm 2021). Source:

Monday, April 15, 2024

The ingredients for a longer life

The ingredients for a longer life 12 May 2020 By David Robson,Features correspondent People from some of the longest lived communities in the world tend to have diets high in fruit and vegetables (Credit: Alamy) A handful of small towns have remarkable longevity. What is it about their lifestyle that can increase your chances of living to 100? One is a town surrounded by tropical forest and beaches popular with surfers, two are craggy islands in the turquoise waters of the Mediterranean, the fourth is at the tail of the Japanese archipelago, while the last is a small city in California whose name means “beautiful hill”. At first glance, there might not seem much to link these five locations – Nicoya in Costa Rica, Sardinia in Italy, Ikaria in Greece, Okinawa in Japan and Loma Linda in California. They are scattered in different corners of the world and could not look more different. But for anyone wanting to live a long and healthy life, these are perhaps the five best places to have been born. These are the so-called Blue Zones, where people’s chances of living to 100 years old is ten times higher than the US average. You might also like: • Why we get nicer as we get older • How our tastes change as we age • Costa Rica’s plan for a long and happy life The term Blue Zone first originated with the Italian epidemiologist Gianni Pes and the Belgian demographer Michel Poulain, who were investigating rates of mortality in Sardinia. Marking regions of high longevity in blue in the early 2000s, they found a cluster of particularly high life expectancies in the province of Nuoro on the island. Working with the American journalist Dan Buettner, they since identified a handful of other regions across the world – work that spawned a best-selling book on the subject in 2008. Getting plenty of daily exercise may be one of the keys to the long life enjoyed by centenarians in Blue Zones around the world (Credit Alamy) In the subsequent 12 years, many scientists have continued their research into the Blue Zones, with many intriguing hypotheses about what might explain the longevity in these regions. The lifespan lottery Let’s first explore the general patterns. As Buettner explored in his original book, the lifestyles of people across the Blue Zones share certain characteristics. The first is diet. Particularly in the past, many people in the Blue Zones tended to eat in moderation. In Okinawa, for example, the elderly people follow the ancient rule of “Hara hachi bu” – eating only until the stomach is 80% full. (According to scientific studies, that translates to around 10% fewer calories than the current recommendations for the average adult.) And this seems to slow ageing. Long-term animal studies by Rozalyn Anderson, who researches metabolism and ageing at the University of Wisconsin, have shown that macaques following similar “calorie restricted” diets and have a markedly lower risk of age-related diseases such as cancer, diabetes and heart disease. They even look younger – the macaques’ fur took longer to turn grey, for example. In Okinawa, the elderly people follow the ancient rule of “Hara hachi bu” – eating only until the stomach is 80% full We don’t yet understand the full mechanisms behind these effects, though calorie restriction seems to reduce the build-up of the toxic free radicals that are normally the result of our metabolism, and which can damage our cells. Some scientists have argued that the body also experiences the reduced calorie consumption as a very mild stress, which shifts its signalling to focus on the maintenance of cells (rather than, say, building new tissue). According to Diddahally Govindaraju, a geneticist at Harvard University, in Boston, Massachusetts, this decreases the risk of forming damaging mutations in our DNA, which could lead to diseases like cancer. “Calorie restriction appears to reduce DNA damage and improve DNA repair,” he says. “And genome integrity appears to be a feature among centenarians.” Besides being fairly frugal, the diets in the Blue Zones are mostly plant-based, which can contribute to greater heart health. Spiritual connection In addition to their eating habits, of equal importance are the social lives these centenarians enjoy: the people in the Blue Zones tend to live in highly integrated communities. It is now well accepted that a sense of social connection helps to reduce the effects of stress, while the responsibility of maintaining those friendships encourages greater overall mental and physical activity. In one meta-analysis, Julianne Holt-Lunstad, a psychologist at Brigham Young University, in Provo, Utah, found that the quality of our relationships are as important to our health as exercise or diet. Watch BBC Reel’s series of three films exploring the lives of Sardinia’s centenarians and the unique benefits of their genetic and cultural isolation. Religion offers one important source of social connection in the Blue Zones. The people of Loma Linda are mostly Seventh-Day Adventists, for instance, while the Nicoyans and Sardinians are Catholics, the Ikarians are Greek Orthodox, and in Okinawa, the locals practice the Ryukyuan religion. Writing a paper for the American Journal of Lifestyle Medicine, Buettner described how all but five of the 263 Blue Zone centenarians he had interviewed were part of some kind of spiritual community. (Read more about how the Nicoyan way of life contributes to their longevity.) Social interaction and spirituality were both found to be common among 100 year olds in places like Okinawa (Credit: Alamy) In addition to the social connection they can provide, religious practices also offer a sense of purpose to life, and offer solace during upset, which together are thought to add between one and five years to believers’ life expectancy. That’s bad news for atheists, of course, but there may be other ways that people without faith can enjoy the same benefits. Some cities already have secular assemblies that offer time for contemplation, meditation and social support from like-minded individuals, which should, in theory, have many of the same life-enhancing effects without the belief of divine intervention. The awe we experience in nature may also have similar benefits. Time for a brew? Beyond these broad similarities between the Blue Zones, some of their more unique quirks can also give us some hints at the secrets of exceptional longevity. When it comes to the specific elements of the diet, for instance, it’s interesting to note that on the Greek island of Ikaria, the population is known to drink a few cups of tea and coffee a day, and this seems to be associated with reduced cardiovascular disease in the region. The finding would seem to fit with longitudinal studies from elsewhere showing that drinking a few cups of these hot drinks a day can reduce the risk of problems like cardiovascular disease. This may be due to the fact they contain many micronutrients, such as magnesium, potassium, niacin and vitamin E, that act as antioxidants, mopping up toxic free radicals that may be behind many diseases. Greek coffee – made by boiling a fine grind in a tall narrow pot – is thought to be especially good for the body since it releases polyphenols, known as chlorogenic acids, which reduce inflammation throughout the body. Inflammation contributes to many age-related diseases, such as promoting the growth of plaques in your arteries that lead to heart attacks and strokes, so the regular consumption of an anti-inflammatory polyphenols like the chlorogenic acids could reduce that damage. They don’t even eat as much fish as you might expect for people living on an island – Christina Chrysohoou These drinks are also associated with a lower risk of type II diabetes. Through various pathways, compounds that have anti-inflammatory and antioxidant properties – such as chlorogenic acids – appear to stabilise our blood sugar levels, by regulating our cells’ energy uptake and preventing them from developing insulin resistance – a precursor to diabetes. “It promotes the beneficial metabolism of glucose,” says Christina Chrysohoou at the University of Athens, Greece, who was a lead author on the study of cardiovascular disease in Ikaria. Caffeinated drinks certainly aren’t a guaranteed elixir of life. But combined with a moderate, low-calorie diet, they may contribute to a longer and healthier existence. Like the food in Okinawa and Sardinia, the diet in Ikaria is notably low in meat and high in fresh fruit and vegetables. “They don’t even eat as much fish as you might expect for people living on an island,” says Chrysohoou. Bitter-sweet solutions Along similar lines, the exceptional longevity of Okinawa’s residents has generated lots of interest in two of its most common ingredients: the sweet potato and the bitter melon – that may have life-extending properties. While rice is the staple carbohydrate for most of Japan, the sweet potato has long been the most common carb on Okinawa since it was first introduced in the 1600s. Unlike foods such as white bread, it has a low glycaemic index, meaning that its energy is released slowly into the bloodstream. It is also dense with nutrients like vitamins A, C and E: antioxidants that can mop up damaging free radicals, and which also reduce inflammation. The sweet potatoes’ potassium content helps to reduce blood pressure. The tuber is also high in fibre (which is essential for a healthy gut microbiome) and low in cholesterol and saturated fat, all of which should reduce the risk of chronic disease. (Read more about how a high-carb diet may explain why Okinawans live so long.) Greek coffee is thought to be particularly good for human health due to the anti-inflammatory compounds it contains (Credit: Alamy) The bitter melon, meanwhile, looks a bit like a knobbly cucumber, with a taste a little like black tea. It is used in a variety of dishes – from salads and tempura to juice drinks. Like the Greek coffee drunk in Ikaria, it contains compounds that may stabilise glucose uptake and metabolism, reducing the risk of insulin resistance and type II diabetes. There may be many more examples in years to come. Nutrient-dense marine organisms like seaweed, algae and kelp – all of which are consumed in Okinawa – are also attracting increasing interest for their potential to stave off age-related diseases, for instance. A lifegiving landscape Less researched, but equally tantalising, is the possibility that the very place where these people live may hold some clues to their exceptional longevity. The Sardinian Blue Zone, for example, lies in incredibly mountainous, and breath-takingly beautiful, regions of the island – often called the “Selvaggio Blu” (Blue Wild) to describe the rugged terrain sweeping straight from the coast. Most of the centenarians living in Sardinia were farm workers, leading Pes and Poulain to speculate that the steep slopes increased the physical activity of their already demanding day-to-day lives. They were athletes thanks to the natural landscape and a traditional way of life. The village with the key to long life Across the Aegean, Chrysohoou has been intrigued by the presence of low but significant levels of radioactivity on the Blue Zone in Ikaria. The island is essentially divided into two geologically distinct zones: the east, formed of sedimentary metamorphic rock, and the west, which lies on a bed of granite that leaks radioactive radon into its famous springs. Amazingly, the longevity of the population appears to be highest in those slightly radioactive regions, while the people in the east have slightly lower lifespans. (Those springs in the west of the island are even said to produce “immortal water” by locals.) This could be a mere coincidence but Chrysohoou points to research in the US, which have also found this puzzling correlation between low levels of environmental radiation and longevity. Amazingly, the longevity of the population appears to be highest in those slightly radioactive regions “The Rocky Mountain States, for example, have a lower prevalence of cancer death compared to the Gulf States,” says Chrysohoou – yet the background radiation in Idaho, Colorado and New Mexico is around three times as high as the natural background radiation in Louisiana, Mississippi and Alabama. A few animal studies have also found that a very low dose of radiation can induce an anti-inflammatory response and DNA repair – possibly in the same way that the small but beneficial stress of caloric restriction can trigger protective mechanisms within cells. For the time being, the finding remains a curiosity. Many more studies would have to confirm that these patterns cannot be explained by other factors and their potential mechanisms; Chrysohoou certainly isn’t suggesting that radioactive drinks might be the elusive elixir of youth. “It is rather dangerous to expect that radioactivity is good for your health,” she admits. The moderation principle Clearly, exceptional longevity of the Blue Zones can’t be restricted to a single magic ingredient, but is the combination of many factors – some of which are shared between the regions, and some of which are unique to each individual place. While that may not be as enticing as the discovery of a miraculous anti-ageing elixir or superfood, there are nevertheless many ways we could learn from these discoveries. Eating moderately with plenty of fruit and vegetables, exercising plenty, drinking coffee and tea, and finding space for spiritual solace (whether that’s church or a long mountain walk) – these are things that we can all build into our daily lives.

Sunday, April 14, 2024

ĐI TÌM Quest

ĐI TÌM Nguyên Thuần Đã lâu lắm rồi "tôi" đi tìm "tôi" hành trình nổi trôi trải muôn vàn kiếp rong ruổi trầm luân lang thang sáu cõi mong manh sương khói chợt đến chợt đi còn lại chút gì giọt nước hải hà giữa biển bao la lạc loài thân xác biết đâu là nhà Đã lâu lắm rồi "tôi" đi tìm Người giữa nơi trần thế lận đận lao đao thuyền nan lạc lối ngụp lặn ba đào lênh đênh vô định đâu là bến bờ đâu ánh hải đăng giữa đêm tăm tối soi sáng nẻo về thôi kiếp vong thân phong trần cùng tử Giữa vùng thinh lặng một tiếng chuông ngân xua tan mộng mị một miền cô tịch lặng lẽ thanh nghiêm ở đây bây giờ theo dòng hơi thở "tôi" tìm thấy "tôi" như một dòng chảy gợn sóng lăn tăn chợt đến chợt đi chẳng lưu vết gì "tôi" ẩn "tôi" hiện như bọt như sương cầu vồng lấp lánh hư vô mong manh Giữa vùng thinh lặng một tiếng chuông ngân xua tan mộng mị một miền cô tịch lặng lẽ thanh nghiêm "tôi" nhận biết Người ở đây bây giờ rạng rỡ mặt trời an bình hạnh phúc là nơi nương trú miên viễn cho "tôi" và cho muôn loài Dòng sông mãi trôi bao giờ dừng lại thôi kiếp lưu đày này "bạn tôi" ơi ? Mùa Phật Đản 2018

Ông Giao Chỉ và giấc mơ để lại cho mai sau

Ông Giao Chỉ và giấc mơ để lại cho mai sau Tuấn Khanh (Ảnh Cao Trí)
Có một bức ảnh nhỏ được trưng bày ở ngay lối vào của Viện Bảo tàng người Việt tại San Jose. bức ảnh có nội dung đơn giản, lọt thỏm giữa những hình ảnh gai góc, dữ dội nhất của Viện Bảo tàng, hút trọn ánh nhìn của người khác. bức ảnh ghi lại khoảnh khắc những đứa trẻ Việt Nam ngày đầu ly hương, bộn bề giữa miếng ăn và những điều mới mẻ đánh vật với đời hội nhập, được dắt dìu vào bài học chữ Việt.
Căn cước của chúng ta – những hậu duệ Việt Nam Cộng Hòa Bức hình được chụp ở Falls Church, Virginia, cho thấy những năm tháng di dân đã bước vào giai đoạn tương đối ổn định. Việc tìm về nguồn cội được những con người tất tả chạy khỏi quê hương với những mất mát đau đớn – thậm chí là những khoảng trắng không thể điền vào được bất kỳ một mô tả nào – đã bắt đầu được dựng lại với bài học về ơn nghĩa sinh thành. Không có kể lể về sự thương đau hay ẩn chứa hận thù nào. Bức ảnh sống động như một lát cắt về sự hình thành của cộng đồng người Việt Nam đến Mỹ sau năm 1975. Có hàng ngàn những bức ảnh như vậy mô tả hình ảnh người Việt dựng một quê hương mới ở Bắc bán cầu, mà Việt Museum đang gìn giữ. Mọi thứ giống như một bài diễn từ câm lặng nhưng sục sôi và đầy sức sống của hàng triệu con người buộc phải rời khỏi ngôi nhà của mình dấn thân ra biển. Mùa hè 2023, khi đến thăm Việt Museum, nằm ở 1650 Senter Rd, San Jose, nhóm phóng viên Saigon Nhỏ thấy một chiếc thuyền vượt biên từ miền Tây Việt Nam được phục dựng, nằm bên hông Viện Bảo tàng. Chiếc thuyền dài chỉ có mấy mét, chứa 5-7 con người, vượt những cơn bão khổng lồ gấp vài chục lần sức chịu của nó, nhưng rồi cũng đã đến được bờ đại dương mới. Bằng một niềm tin và niềm hy vọng kỳ lạ nào đó, những công dân Việt Nam Cộng Hòa vô danh mới đủ sức mạnh sinh tồn lạ thường như vậy. Trong Viện Bảo tàng có những ghi chú về thuyền nhân Việt Nam ra biển: Có một thời bức ảnh Mẹ Quan Âm cưỡi con rồng đen, hiện ra cứu độ những chiếc thuyền mỏng manh giữa biển, được truyền khẩu như một huyền thoại, khiến những gia đình xuống thuyền thường bí mật mang theo bức ảnh đó trong túi áo như một niềm hy vọng giữa đêm đen. Những câu chuyện nhỏ và xao động lòng người như vậy, liệu có ai còn nhớ qua những năm tháng bắt đầu cơm no áo đủ? (Ảnh Cao Trí)
Cũng như chiếc thuyền nhỏ chở quá nhiều niềm hy vọng và chứng cứ về những sự tồn tại cần thiết, Việt Museum khởi đầu chỉ là một gian phòng nhỏ dung nhận những kỷ vật được góp nhặt bởi những di dân Việt, nay mỗi lúc lớn dần, và thậm chí là lớn hơn cả trong sức tưởng tượng của ông Giao Chỉ cùng những người đang gìn giữ nó. Lúc đầu, Viện Bảo tàng chỉ khiêm tốn gìn giữ những ký ức vật thể với hai tiêu chí: Thuyền Nhân và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Thế nhưng thời gian trôi qua, dữ liệu mỗi lúc một nhiều và trách nhiệm phát sinh mỗi lúc một lớn. Giờ đây Viện Bảo tàng ôm cả trong mình lịch sử khởi đầu của những người Việt đầu tiên tới Mỹ từ thế kỷ 19, cho đến lịch sử không thể lãng quên được của hai nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đến tận những biến cố về sau. Ký ức lịch sử, hiện thực cho thế hệ mai sau Một trong những sự nối kết rất ngẫu nhiên giữa ông Giao Chỉ Vũ Văn Lộc và Viện Bảo tàng là bởi hơn 30 năm làm công việc cho cơ quan tổ chức định cư di dân IRCC (Immigrant Resettlement and Cultural Center), ông Giao Chỉ nhận được cũng có, sưu tầm được cũng có, những di tích về Việt Nam Cộng Hòa và thuyền nhân. “Tôi trưng bày với tính cách tài tử thôi, rồi ngày càng thấy nhiều di vật cho nên có nhu cầu phải có một viện bảo tàng. Nhưng mà trước khi có viện bảo tàng thì phải sáng tác thêm những tượng đài với lại vẽ những hình. Tới năm 2004 thì chúng tôi bắt đầu ký kết để có một chỗ ở San Jose History Park, sửa chữa lại thành Viện Bảo tàng”, ông Giao Chỉ kể. (Ảnh: Cao Trí)
Một trong những công việc đầy ám ảnh mà ông Giao Chỉ phải làm, đó là phải sưu tập cho đủ những số liệu chính xác phối hợp từ các cơ quan của Hoa Kỳ, kể cả Liên Hiệp Quốc, để tìm ra có bao nhiêu người Việt đã chết trên biển và có bao nhiêu người đã ra đi để đến được bến bờ tự do. Cũng là một thuyền nhân đến Mỹ từ năm 1976, ông Giao Chỉ đã thu thập về những người có cùng số phận với mình, kể cả những người không may, để làm thành một hệ thống dữ liệu lịch sử như bức tường đá đen của người Việt trong thế kỷ 20. “Phối hợp tất cả tài liệu, kết luận cuối cùng của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tổng kết là 964,000 người Việt đã đi trong năm đợt. Đó là lịch sử của 20 năm thuyền nhân tị nạn. Theo ước tính của tôi, có lẽ vào khoảng 300,000 người đi mà không tới, kể cả những người bị chết trên đường bộ và đường biển, nhưng mà đa số là đường biển”, ông Giao Chỉ trầm ngâm kể lại. “Tất cả chúng ta là công dân của một nước cộng hòa bị hủy diệt. điều mà tôi ấp ủ đó là dựng lại tất cả những gì thuộc về hành trình của một cộng đồng, và giá trị của một linh hồn tự do Việt Nam bất diệt không thể nào mất đi. mục đích của Việt Museum thật sự rất đơn giản nếu nói ra: đó là làm rõ căn cước và nguồn gốc của chúng ta – những công dân và hậu duệ của Việt Nam Cộng Hòa”, ông Vũ Văn Lộc, hay còn được biết đến với cái tên Giao Chỉ, chậm rãi nói. Một trong những tác phẩm đắc ý của ông Giao Chỉ, là việc tạo nên một hải đồ bằng đồng, mô tả những nơi khởi hành và điểm đến của lịch sử thuyền nhân Việt Nam, được trưng bày nổi bật ở lối vào của bảo tàng. Tấm hải đồ phác thảo một thế giới không khoan nhượng để tìm đến tự do, nơi những công dân Việt Nam Cộng Hòa quyết ra khơi tìm quê hương thứ hai của mình. “Nếu bây giờ chúng ta không thu thập và tạo ra những tác phẩm nghệ thuật mới về điều này, thì lịch sử và hành trình của hàng triệu người tị nạn sẽ biến mất,” ông Giao Chỉ nói. “Tất cả sẽ biến mất.” Rất nhiều người, kể cả không phải là người Việt, khi đến Viện Bảo tàng đã đứng nhìn, trầm ngâm rất lâu khi được biết về ý nghĩa của tấm hải đồ này. (Ảnh: Cao Trí)
Tinh thần của Viện Bảo tàng là để lại một di sản và những ký ức lịch sử hiện thực cho thế hệ mai sau. Điều ngạc nhiên mà ông Giao Chỉ kể, là ông đã tìm thấy được sự đồng điệu từ rất nhiều người làm đủ ngành nghề, để cùng góp sức xây dựng nên một Viện Bảo tàng tương đối đầy đủ và khang trang như ngày hôm nay. “Tôi biết ơn vì đã được một nhóm nghệ sĩ, các điêu khắc gia, các họa sĩ cùng góp sức thực hiện. Và các anh em cũng nói rằng không muốn để tên tuổi. Các anh nói là tất cả vì công việc chung cho mai sau”, ông Giao Chỉ nhấn mạnh tiêu chí mà ông cùng mọi người thực hiện theo đuổi, “Chúng tôi muốn kể lại những chuyện gì đã xảy ra, quan trọng nhất là tự do – dân chủ – nhân bản và trung thực. Cái đó là lịch sử”. Ông Giao Chỉ đã bắt tay vào sứ mệnh của mình bằng hai bàn tay trắng. Việc thuyết phục chính quyền sở tại cũng như những cư dân Việt Nam đang mệt mỏi với cuộc sống mới, qua việc đóng góp cho một Viện Bảo tàng, là điều thực sự rất khó khăn. Ông đã quyết định bán cả căn nhà của mình để có nguồn ngân sách đầu tiên xây dựng và sửa chữa Viện Bảo tàng. Năm 2007, Việt Museum chính thức mở cửa đón khách và gây được sự chú ý lớn từ cư dân lẫn các chính khách Hoa Kỳ. Cùng góp sức, có dân biểu Zoe Lofgren, Giám sát viên Hạt Santa Clara Cindy Chavez và cựu Dân biểu Mike Honda, cùng những người khác. Viện Bảo tàng VNCH, nơi dẫn lối về nguồn cội Khi được hỏi rằng liệu Viet Museum rồi sẽ chỉ là một nơi để hoài niệm của những người đã gắn bó cuộc đời của mình với hai nền Cộng hòa ở Việt Nam hay có thể tác động gì được đến giới trẻ ngày hôm nay hay không, ông Giao Chỉ cười với sự thú vị, nói rằng ông cũng nghĩ đến điều này từ đầu, và vận động đưa Việt Museum vào danh sách hoạt động ngoại khóa, để có thể kết nối với giới trẻ ở Hoa Kỳ nói chung. “Viện Bảo tàng của chúng tôi có chương trình rất đặc biệt là mời tất cả trẻ em và sinh viên – đặc biệt học sinh Việt Nam ở toàn thể vùng Bắc Cali này đến thăm viếng, vì chúng tôi muốn gửi một thông điệp cho thế hệ tương lai để các em biết thuyền nhân là ai, Việt Nam Cộng Hòa là như thế nào, và tại sao chúng ta có mặt ở nước Mỹ này. Trong năm qua chúng tôi đã mời được sáu hội sinh viên Việt Nam ở các đại học ở đây về thăm. Và đặc biệt là chuyến viếng thăm của 180 sinh viên trường Stanford”, ông Giao Chỉ kể. Những kỷ vật trong Viet Museum (Ảnh: Cao Trí)
Ông thuật thêm một chi tiết rất cảm động: “Trong số các em đó, có hai em mà mới đầu tôi tưởng là dân Á Châu khác, nhưng sau cùng mới biết là hai em sinh viên Việt Nam. Cả hai đã ôm nhau khóc trước bức tranh thuyền nhân. Các em nói, mẹ của một trong hai em là thuyền nhân mà các em không bao giờ biết đến chuyện thuyền nhân như thế nào, cho đến khi đến thăm Viện Bảo tàng thì họ mới hiểu. Cả lớp lúc đó mới biết các em này là con em của thuyền nhân và các em sắp sửa tốt nghiệp cử nhân Đại học Stanford về chính trị học”. “Giờ thì hàng trăm em, có khi đến cả ngàn em mỗi tuần đến thăm theo chương trình chung được nhà trường tổ chức. Nhưng điều chúng tôi rất muốn là đón khách từ Việt Nam”, ông Giao Chỉ nói, và ngầm chứa trong đó một niềm kiêu hãnh của một quân nhân từ một quốc gia đã bị hủy diệt, để cho thấy rằng mọi thứ thuộc về quốc gia đã biến mất trên bản đồ chính trị thế giới đó bây giờ vẫn sống và vẫn được lưu truyền. “Chúng tôi phải mở cửa cho những người bốn phương trời cũng như những người ở Việt Nam không hề biết Việt Nam Cộng Hòa là gì, và thuyền nhân là ai. Có nhiều gia đình quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa mà hiện giờ vẫn còn ở Việt Nam sang thăm gia đình ở đây đã đến Việt Museum và họ rất ngạc nhiên, rất cảm động khi nhìn thấy bà con mình trước kia đã sống chết vượt biên như thế nào. Họ thậm chí rất xúc động khi nhìn thấy lá cờ vàng và quân phục của miền Nam VNCH!” Tính trung dung và hoàn toàn phục vụ giá trị lịch sử thuần túy là điểm mạnh nhất của Việt Museum. Khi dạo qua những tranh tượng và mô hình về những người tù cải tạo, với những vật dụng thời khốn khó nhất từng giúp hun đúc và nuôi lớn những trí thức người Việt hải ngoại đóng góp vào sự phát triển của Hoa Kỳ, ông Giao Chỉ cũng được hỏi là liệu đây có là dấu tích của lòng căm thù? Ông Giao Chỉ năm nay đã hơn 80 tuổi. Điều ông vô cùng lo lắng rằng không biết về sau này những người thừa kế sẽ tiếp tục gìn giữ Việt Museum và phát triển nó ra sao. “Thử tưởng tượng 50 năm, 100 năm sau, nếu cả trăm triệu dân Việt Nam không hề biết Việt Nam Cộng Hòa và thuyền nhân ra làm sao. Tôi mơ về một nước Việt Nam bình an”, ông Giao Chỉ nói, đôi mắt nheo nheo, “dân tộc mình đã phải cầm súng, giết nhau và hận thù quá lâu rồi”. (Ảnh: Cao Trí)
Một trong những trưng bày tâm đắc của ông Giao Chỉ là bộ sưu tập bốn cây súng của hai phía Nam-Bắc đối đầu nhau. Trong chiến tranh, hình ảnh tiêu biểu là người lính và cây súng, nhưng người Việt Nam không làm ra súng để giết nhau. Việt Museum giữ lại bốn cây súng tiêu biểu của Nga, Trung Quốc, Pháp và Mỹ – những khẩu súng đã được đặt vào tay thanh niên Việt Nam để đánh nhau suốt 30 năm, làm cho ba triệu người chết. Ông Giao Chỉ lắc đầu, “một cuộc chiến quá nhiều mất mát và vô nghĩa”. Niềm mong mỏi cuối cùng của ông Giao Chỉ là Viện Bảo tàng của ông không chỉ trở thành một phần di sản của người Việt hải ngoại mà nó cần phải được phát triển mạnh hơn. Ông mong muốn mọi người cùng góp tay góp sức, giúp làm đầy đặn và sâu thẳm về những gì mà người Việt đã mất, và còn lại với nhau. The Viet Museum (the Museum of the Boat People & the Republic of Vietnam) -Kelley Park, 1650 Senter Rd, San Jose, CA 95112 -Phone: (408) 287-2290 -Email: vietmuseumsj@gmail.com Source: vietmuseumsj

Thursday, April 4, 2024

Tiểu Sử Nguyễn Du Qua Những Phát Hiện Mới -Nguyễn Du có Truyện Kiều từ năm nào?

Tiểu Sử Nguyễn Du Qua Những Phát Hiện Mới Phạm Trọng Chánh
Tượng đài nơi Khu lưu niệm Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (Photo: VietnamPlus Nguồn: Nguyễn Du có quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không phải lúc đi sứ năm 1813 mà có từ năm 1790 tại Hàng Châu. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ năm 1789-1790 Nguyễn Nễ, anh Nguyễn Du làm Phó Sứ sang xin phong vương cho Vua Quang Trung, đã mang về tặng em. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có nói với tôi rằng Nguyễn Du viết trước khi ra làm quan năm 1802, vì sau đó công việc quan bận rộn Nguyễn Du không có thì giờ để diễn ca Kim Vân Kiều truyện được. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã tiên đoán Nguyễn Du viết Truyện Kiều rất sớm, tứ năm 24 tuổi. Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn sau 10 năm nghiên cứu các chữ húy trong 8 văn bản cổ nhất Truyện Kiều, dò đọc hơn 30 000 câu thơ, đã đi đến kết luận: Các văn bản đều tránh chữ húy đời Lê-Trịnh, chứng tỏ, Truyện Kiều không viết vào đời Nguyễn Gia Long, mà viết sớm hơn vào thời Lê Trịnh. Tôi có dịp gặp gỡ và quen biết từ những năm 1980 khi Giáo sư và phu nhân sang Paris dạy tại Khoa Việt Học. Trường Ngôn Ngữ Đông Phương. Viện Đại Học Paris VII. Những ngày cuối đời của Giáo sư qua địa chỉ internet: ngtaican@mtu-net-ru, và địa chỉ nhà riêng tại Moscou tôi thông báo với Giáo sư các khám phá của tôi khi nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du: tôi đã tìm ra cuộc đời ba năm giang hồ của Nguyễn Du tại Trung Quốc (1797-1790), trong 10 năm gió bụi (1786-1796) mối tình với Hồ Xuân Hương, khi nghiên cứu các địa danh, hoàn cảnh lịch sử, phong cảnh mô tả trong thơ và đi du lịch Trung Quốc theo dấu chân cuộc hành trình này. Giáo sư lấy làm mừng rỡ khi nhận được quà tặng các tác phẩm của tôi, và Giáo sư cho biết Giáo sư đã bị phong thấp liệt nửa người rồi nhưng cũng ráng viết cho tôi vì thú vị quá. Nhất là chuyện Nguyễn Du hẹn với Nguyễn Đại Lang gặp lại tại Trung Châu, là Hàng Châu: Miếu Nhạc Phi, ở cạnh Tây Hồ, nơi đây Nguyễn Du đã ở lâu chờ đợi nên làm 5 bài thơ, đối diện miếu Nhạc Phi có con đê Tư (Su) băng qua một góc hồ là chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải từng tu hành. Có thể nhà sư Chí Hiên (Nguyễn Du) đã trú nơi đây, nơi đây Nguyễn Du đã nghe chuyện Từ Hải và có được Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân viết từ đời Khang Hy, được khắc in vào đời Càn Long, đang được bán và nổi tiếng tại Hàng Châu năm 1790. Sau khi gặp Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Du được chu cấp nên đi Yên Kinh với xe song mã và trở về đến Hoàng Châu Hà Bắc thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ bộ Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà, nơi nghĩ mát Vua Càn Long. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ ghi lại cuộc gặp gỡ này: «Đến Hoàng Châu vừa vặn gặp người bạn văn chương họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn phóng bút làm thơ tặng». Bài thơ có câu: Giải cấu văn nhân sách chỉ đàm ( Gặp gỡ nhà văn tìm thấy đề tài sách để nói chuyện) và trên đường đi sứ Đoàn Nguyễn Tuấn có bài thơ Vô Đề có câu: Hồng nhan tự cổ đa tăng mệnh (Má hồng từ xưa thường bị số mệnh ghen ghét). Nhà văn họ Nguyễn là ai? và đề tài sách gì ám ảnh Đoàn Nguyễn Tuấn phải viết một bài thơ về chuyện hồng nhan?. Người bạn văn chương họ Nguyễn ấy chính là Nguyễn Du. Tìm ra nhân vật Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên Thi tập, tức Nguyễn Đăng Tiến, nguyên quyền trấn thủ Thái Nguyên, thay quan Tham Tụng Nguyễn Khản, Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu theo Lê Quý Kỷ sự của Nguyễn Thu, tức Cai Gia tay giặc già trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Cai Già trong Lịch Triều Tạp kỷ của Ngô Cao Lãng. Đến các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập tả cảnh núi non, tuyết, bốn mùa, trưởng giả còn ăn mặc theo nhà Hán, không theo lịch nhà Tân ở Vân Nam, cảnh rừng liễu cao ở Liễu Châu, cảnh Cao sơn lưu thủy ở Quế Lâm.. Chia tay Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Du cho biết sẽ đi theo sông Giang Hán đến Trường An, và hẹn gặp lại ở Trung Châu. Các bản dịch đều chú thích Trung Châu là Hà Nội. và bỏ mất chữ Hán: Tôi sang sông Hán đây, thành Tôi sẽ sang sông đây. Không ai gọi Trung Châu là Hà Nội bao giờ, Trung Châu là vùng lòng đỏ trứng gà Hoa Hạ, các kinh đô lớn giữa Trung Quốc. Bằng một con đường khác tôi đã chứng minh công trình của Gs Nguyễn Tài Cẩn hoàn toàn đúng, và Giáo sư rất vui khi nhắm mắt lìa đời. Nguyễn Du có văn bản Truyện Kiều từ năm 1790 tại Hàng Châu. Ngày sinh và năm sinh Nguyễn Du và cha mẹ Theo gia phả Nguyễn Du sinh ngày 23-11 năm Ất Dậu, âm lịch, tính ra dương lịch là ngày 3 tháng giêng 1766 mới đúng. Các tài liệu cũ đều lầm lẫn khi viết Nguyễn Du sinh năm 1765. Thân phụ Nguyễn Du là quan Tư Đồ Nguyễn Nghiễm, ( Chức vụ Tham Tụng tương đương Thủ Tướng Chính phủ ngày nay.) Mẹ Nguyễn Du bà Trần Thị Tần vợ thứ ba, trong 8 bà vợ cụ Nguyễn Nghiễm, phong tục ngày xưa vợ cả bà Đặng Thị Dương do cha mẹ cưới để làm dâu, vợ thứ hai do bà cả cưới cho chồng, làm bạn cho mình, bà Đặng Thị Thuyết em gái bà Dương, sinh Nguyễn Điều mất sớm, Nguyễn Điều được bà cả nuôi dưỡng. Hai bà đầu cai quản gia trang ở Tiên Điền. Các con theo cha học tập. Bà ba chính là người do quan Tư Đồ tự chọn cho mình, con ông Trần Ôn, dòng dõi Tiến sĩ Trần Phi Chiêu, làng Hoa Thiều, Bắc Ninh, giữ chức Câu kế quản lý sổ sách gia đình. Bà Tần được theo cụ Nguyễn Nghiễm thương yêu nhất cho theo đi trấn nhậm các nơi và bằng chứng là bà có con đông nhất, 5 người con. Với vị thế là người được chồng thương yêu nhất và có cha là quản gia, mẹ Nguyễn Du là người có thế lực trong gia đình. Điều này bác bỏ quan điểm cho rằng mẹ Nguyễn Du thân phận lẽ mọn thấp kém trong gia đình. Bút hiệu của Nguyễn Du Nguyễn Du có bút hiệu là Thanh Hiên, điều này rõ ràng trong Thanh Hiên thi tập.. Thanh lấy từ chữ Thanh Liên bút hiệu thi hào Lý Bạch ghép với chữ Hiên gia đình thường dùng: Cụ Nguyễn Nghiễm bút hiệu Nghị Hiên, anh Nguyễn Nể bút hiệu Quế Hiên, cháu Nguyễn Thiện bút hiệu Thích Hiên.. Nguyễn Hành trong bài Đi Săn có nhắc đến danh hiệu Phi Tử. Phi Tử là người thời Chu Hiếu Vương thời Xuân Thu Chiến Quốc, dâng ngựa cho vua nhà Chu được phong chức Phụ Dung (nước phụ chư hầu). Sự kiện này trùng hợp với Nguyễn Du, khi vua Gia Long ra Bắc năm 1802, từ Quỳnh Hải đã dẫn thủ hạ, học trò và tráng đinh đến dâng ngựa và lương thực cho vua Gia Long được phong chức Tri huyện Phù Dung, trấn Sơn Nam, nơi gặp gỡ, cho nên Nguyễn Du được gọi là Phi Tử. Từ khi tìm ra Lưu Hương Ký thơ Hồ Xuân Hương có chép hai bài thơ Chí Hiên tặng. Suy diễn từ tình cảm oán trách trong bài, tôi cho rằng đó là thơ Nguyễn Du, oán trách Hồ Xuân Hương đi lấy chồng Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, khi Nguyễn Du bị tù tại Hồng Lĩnh năm 1796. Tôi cho rằng đó là bút hiệu Nguyễn Du dùng trước khi đổi thành bút hiệu Thanh Hiên. Cuối năm 1787 Nguyễn Du sang Vân Nam bị bệnh ba tháng xuân, sau đó Nguyễn Du xuất gia thành nhà sư Chí Hiên, để đi giang hồ đến Trường An và hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Trung Châu. Thành nhà sư đi nhờ các thuyền buôn không mất tiền, đêm trú lại một ngôi chùa trên đường đi tụng Kinh Kim Cương làm công quả, ăn ngủ tại các chùa trên đường đi. Chí là danh hiệu Chí Thiện Thiền Sư Chưởng môn Thiếu Lâm Tự thời vua Càn Long. được người đương thời kính phục, đề tài của nhiều bộ tiểu thuyết. Nhà sư giỏi võ vác thanh trường kiếm trên vai, được các thuyền buôn tin tưởng và có thể nhờ làm lễ cầu phúc cầu may buôn bán tốt lành. Với phương tiện này Nguyễn Du có thể đi Giang Bắc Giang Nam cái túi không, Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, (đi gần 5000 km) và Tụng Kinh Kim Cương nghìn lượt (1000: 365 ngày= khoảng 3 năm). Tố Như chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong bài Độc Tiểu Thanh Ký. Tố Như nghĩa là gì? Có điển tích nào không?. Tại sao bài thơ nằm cuối Thanh Hiên Thi tập cùng thời điểm với lúc Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín năm 1803-1804. Tại sao Hồ Xuân Hương có bài thơ Chơi Tây Hồ nhớ bạn, ý tứ trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký, sau khi bỏ Tổng Cóc trở về làng Nghi Tàm. Hiểu Tố Như là Nguyễn Du thì câu thơ Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như, trở thành vô lý. Tại sao Nguyễn Du phải đòi hỏi ba trăm năm lẽ có người khóc mình? tại sao không ngàn năm, điều này ngược lại với thái độ không cần danh lợi ở các bài thơ Đi săn tại Hồng Lĩnh, tại sao Nguyễn Du là 38 tuổi, làm quan chưa lâu mà sánh mình với một cô gái 18 tuổi lấy lẽ và bị vợ cả ghen mà buồn và chết? Nam nhi ngày xưa chẳng ai sánh mình với nữ nhi? 6 câu đầu nói về nàng Tiểu Thanh, bổng nhiên câu cuối hỏi vớ vẫn ai khóc mình là lạc đề? Nguyễn Du không thể làm thơ lạc đề như thế. Hiểu tố như: Theo tự điển Thiều Chửu: Tố là người phẩm hạnh cao quý, như là như thế, như vậy. Tố như là người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Đáp ứng được với thời điểm lúc Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín vợ mất, tìm về Cổ Nguyệt Đường thăm chốn xưa, thì Hồ Xuân Hương đang lấy lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, nàng đang đau ốm thân phận như nàng Tiểu Thanh. Xúc động Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký, xót thương nàng: Ba trăm năm lẽ nữa ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Hồ Xuân Hương nhận được thơ, dứt tình với Tổng Cóc: Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi. Dù anh có cho tôi nghìn vàng tôi cũng không trở lại với anh nữa như cóc bị bôi vôi ( đi mất biệt tăm). Trở về Nghi Tàm Hồ Xuân Hương viết bài Chơi Tây. Hồ nhớ bạn: Tây Hồ vườn cảnh đã như xưa; Người đồng châu ấy có bao giờ; Nhật Tân đê vỡ nhưng còn lối, Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ..Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng. Kìa non phượng đất khói tuôn mờ. Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy, So dạ hoài nhân dễ chưa vừa. Tình cảm bài thơ hoàn toàn phù hợp với mối tình ba năm với Nguyễn Du và trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký. Nguyên do sai lầm do những người chép văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ thêm vào. Ngày xưa anh em chỉ gọi nhau là gia huynh, gia đệ: Nguyễn Du viết bài Ức gia huynh, nhớ anh Nguyễn Nể, và Ngô gia đệ cựu ca cơ cho người hát cũ của em Nguyễn Ức. Thơ Nguyễn Nể viết cho Nguyễn Du lại có những cái tựa kỳ dị: Hoài Thanh Hiên Tố Như đệ?. Không ai viết hai danh hiệu cùng một lúc? Nguyễn Du đại diện binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại Thái Nguyên Nguyễn Khản năm 1783, khi Trịnh Tông lên ngôi chúa, rời nhà giam trở thành Thượng Thư Bộ Lại hành Tham Tụng (Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ kiêm Thủ Tướng) kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Nguyễn Du vừa đậu Tam Trường trường thi Sơn Nam, Nguyễn Khản đã phong em làm Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu Hiệu, chỉ huy đội quân hùng hậu nhất Thái Nguyên, cùng Nguyễn Quýnh chức Trấn Tả Đội, đội quân quan trọng khác. Quyền Trấn Thủ Thái Nguyên là Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu, tức Cai Già, Cai Gia, Nguyễn Đại Lang. Vốn là tay «giặc già» Trung Quốc, gốc người Việt Đông sang tị nạn tại Việt Nam, được Nguyễn Khản dùng dạy võ cho các em. Thái Nguyên là nơi có nhiều người Trung Quốc sang khai thác mỏ bạc, dân giang hồ tứ chiến, việc gửi Cai Gia lên trấn Thái Nguyên là một việc hợp lý. Nguyễn Đại Lang có kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du, vì lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là anh Cả: Nguyễn Đại Lang. Sinh tử giao tình tại, Tồn vong cùng khổ khi. Hai người từng bị tù, cùng khổ khi bị tuớng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm bắt và cùng được tha.(bài Biệt Nguyễn Đại Lang). Nguyễn Du đã lấy quê Nguyễn Đại Lang thay cho quê Hấp Huyện, An Huy của Từ Hải: Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông. Điều này bác bỏ gia phả viết: Nguyễn Du được tập ấm chức quan nhỏ cha nuôi họ Hà. Và Nguyễn Du có vợ trong thời gian này ở Quỳnh Hải. Anh Nguyễn Khản người nuôi nấng Nguyễn Du bị tù tội suýt bị giết năm 1780 vụ án Trịnh Tông, ra khỏi tù phải đương đầu với kiêu binh, thì còn lòng dạ nào lo cưới vợ cho Nguyễn Du? Khi anh Nguyễn Khản bị tù, Nguyễn Du trở về làng Tiên Điền học với chú Nguyễn Trọng. Người đi theo vua Gia Long ra Bắc không phải là Nguyễn Du mà là Nguyễn Nể Nguyễn Nể đang làm Trung Thư Lĩnh, chức vụ tương đương với Trần Văn Kỷ, kiêm chỉ huy xây Phượng Hoàng Trung Đô, cùng Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận và Trần Quang Diệu, thì được lệnh vua Cảnh Thịnh đem cụ Nguyễn Thiếp về triều. Đến nơi thì Vua Gia Long chiếm Phú Xuân, không theo kịp Cảnh Thịnh chạy ra Bắc. Cả hai đều được Gia Long triệu đến. Gia Long tha chết cả hai, cho Nguyễn Thiếp về quê quán và dùng Nguyễn Nể để hỏi các nghi lễ đi sứ xin phong vương sang nhà Thanh, nên đem Nguyễn Nể theo ra Bắc. Lúc này Nguyễn Du không ở Hồng Lĩnh mà ở Quỳnh Hải, các bài thơ viết tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du đều nói mình ba chục tuổi. Khi vua Gia Long ra Bắc; từ Quỳnh Hải, Nguyễn Du đem học trò, thủ hạ dâng ngựa, lương thực đi đến trấn Sơn Nam, huyện Phù Dung thì gặp vua Gia Long vua phong ngay làm tri huyện nơi này. Chi tiết này bác bỏ gia phả viết: Nguyễn Du từ Hà Tĩnh dẫn thủ hạ dân sớ, và lương thực cho vua Gia Long, và được đem ra Bắc phong cho làm Tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam. Một phần Bắc Hành tạp lục và Thanh Hiên thi tập được viết ở Trung Quốc trong thời đi giang hồ. Trong Thanh Hiên thi tập nhiều bài thơ Nguyễn Du đã viết tại Vân Nam, Liễu Châu, Quế Lâm.: Sơn cư mạn hứng, U cư, Mạn hứng,, Xuân Dạ, Lưu biệt Nguyễn Đại Lang, Biệt Nguyễn Đại Lang, Tống Nguyẽn Sĩ Hữu Nam qui. Trong Bắc Hành Tạp lục nhiều bài, gần phân nửa, đã được viết năm 1788-1790, 23 năm trước khi đi sứ. - Các bài thơ làm ở Trường An, Hàng Châu không nằm trên đường đi sứ năm 1813: Bùi Tấn Công mộ, Dương Phi cô lý. Phân Kinh Thạch Đài. 5 bài thơ viết ở Miếu Nhạc Phi. - Các bài thơ Nguyễn Du đi một mình, cô đơn trên chiếc thuyền nhỏ như chiếc lá. Khi đi sứ Nguyễn Du đi với đoàn 27 người, với đồ cống phẩm hàng trăm rương hòm: vàng, bạc, ngà voi, sừng tê, quế, yến, lụa, gấm.. Một vị tướng Trung Quốc chỉ huy đưa đón, đi từ Mạc Phủ Nam Quan đến Bắc Kinh và trở về. Tại các địa phương hàng trăm, có nơi hàng ngàn lính hộ tống. Đường xa Trung Quốc thường hay có giặc cướp như kiểu Hoàng Sào, Lương Sơn Bạc, các vùng thường mất mùa đói khó, loạn lạc nổi lên. Quan lại địa phương không thể để cống phầm rơi vào tay cướp, có thể bị triều đình trừng phạt.. Thuyền đi cả đoàn hộ tống, các trạm đèn đuốc sáng rực cả trăng sao. Các địa phương cổng chào, bàn hương án, trống đánh, đốt pháo, bắn súng, ca nhi múa hát, tiệc quan tiếp đón. Nguyễn Du không thể tả cảnh mình «một mình, một ngựa» cô đơn đi sứ được?: Các bài Chu hành tức sự, Sơn Đường dạ bạc, Thương Ngô mộ vũ, Thương Ngô trúc chi ca, Vọng Tương Sơn Tự, Bất tiến hành, Tương Âm dạ… có những chi tiết cho thấy Nguyễn Du viết lúc đi giang hồ. - Các bài thơ làm thời Tây Sơn, có nói đến gió Tây, nói đến tình cảm chống Tây Sơn: Phản Chiêu hồn, Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, Đăng Nhạc Dương lâu., Nhiếp Khẩu đạo Trung,Tín Dương tức sự, Hoàng Hà trở lao.Trở binh hành. Biện giả. Sơ thu cảm hứng. Các bài này viết lúc đi giang hồ thời Tây Sơn. Tây phong biến dị hương, Gió Tây làm rung động đất khách. Trận đánh Tây Sơn Tôn Sĩ Nghị đại bại làm rung động đât khách Trung Quốc (Tín Dương tức sự). - Các bài thơ liên hệ chính sự chống nhà Thanh: Bài Quế Lâm Cù các bộ. Quan Chánh sứ Nguyễn Du không thể thăm lăng mộ giặc tàn nhà Minh, chống lại nhà Thanh. Bài thơ này viết lúc đi giang hồ. Đoạn đường từ Bắc Quế Lâm qua Toàn Châu Trường Sa đến Hán Khẩu theo sông Tương qua Động Đình Hồ. Lần đi giang hồ và đi sứ Nguyễn Du đều đi qua. Khi đi sứ Nguyễn Du có nhắc lại cảnh cũ.: Tây Hà Dịch, Hoàng Hạc lâu, Hán Dương vãn điểu.. Độ Hoài cảm Văn thừa tướng.. Nguyễn Du không có tâm sự hoài Lê và hoàn toàn theo minh chúa là vua Gia Long Trong hành động Nguyễn Du năm 1796 muốn trốn vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh bị Trấn Thủ Tây Sơn Nguyễn Văn Thận bắt giam ba tháng. Trong bài thơ Ức Gia Huynh, năm 1795 Nguyễn Nể xung phong trấn giữ đất thang mộc Quy Nhơn của Tây Sơn. Phan Huy Ích ca tụng việc này, thì Nguyễn Du cho rằng: chức quan ràng buộc thân nơi lam chướng, lạnh lẽo, từ biệt từ nay không biết kiếp nào gặp nhau, trong mộng tìm nhau cũng khó khăn. Năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du đem lương thực thủ hạ ra tiếp đón. Từ giữa năm 1790 đến 1794, Nguyễn Du sống tại Thăng Long, nương tựa nơi anh Nguyễn Nể, nhưng sống tại Gác Tía nhà câu cá anh Nguyễn Khản, cạnh đền Khán Xuân và Cổ Nguyệt Đường, yêu cô hàng xóm họ Hồ. Ba năm này Nguyễn Du viết Đoạn Trường Tân Thanh. Phạm Đình Hổ trong thơ chữ Hán đã trêu cô gái mới lớn Hồ Phi Mai, yêu anh chàng viết Đoạn Trường nên đứng trước gương cũng uốn éo như đứt ruột. Nguyễn Nể được vua Quang Trung nể vì học thức, thường gióng ngựa quý đến thăm. Các quan, tướng Tây Sơn đến dinh Kim Âu ở Bích Câu, nghe cô Cầm gảy đàn vung tiền thưởng như nước. Nhưng Nguyễn Du chỉ đứng trong bóng tối, không hề muốn dựa thế lực của anh để ra làm quan Tây Sơn. Sau khi vua Quang Trung mất năm 1792, Nguyễn Nể được triệu về Phú Xuân làm thầy dạy vua Cảnh Thịnh, sách Tiểu Học do Sùng Chính Viện cụ Nguyễn Thiếp vừa biên soạn. Nguyễn Nể được thăng chức Trung Thư Lĩnh chức vụ quân sư ngang hàng với Trần Văn Kỷ, nhưng phải đối phó với Bùi Đắc Tuyên đang chuẩn bị những bước tiếm quyền Tây Sơn. Chức vụ Trấn Thủ Quảng Nam, thời các chúa Nguyễn dành cho các Thế tử sắp kế vị được trao cho con là Bùi Đắc Trụ. Trong khi Trần Văn Kỷ bị đày làm lính thú, Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm về ở ẩn, đi tu đạo Lão, đạo Phật. Nguyễn Nể phải xung phong đi trấn đóng Quy Nhơn 1795, xin đi sứ truyền ngôi vua Càn Long năm 1795-1796 và cuối cùng xin đi xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An, sau khi tướng Vũ Văn Dũng giết cha con Bùi Đắc Tuyên và Tướng Ngô Văn Sở. Năm 1796, Nguyễn Du muốn trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh. Nguyễn Du không chọn lựa giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh, vì Nguyễn Huệ đã mất.. Mà chọn lựa giữa Nguyễn Ánh và Bùi Đắc Tuyên, Vũ Văn Dũng. Năm 1802, Nguyễn Du ra tiếp đón dâng lương thực và ngựa cho vua Gia Long. Anh Nguyễn Nể đã quy hàng dưới trướng vua Gia Long. Vua Gia Long không dùng Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Nể, chỉ tham khảo ý kiến mà lại dùng con Phan Huy Ích là Phan Huy Chú, Phan Huy Thực, em Ngô Thời Nhậm là Ngô Thời Vị và Nguyễn Du, Nguyễn Ức em Nguyễn Nể. Đó là tóm lượt những phát hiện mới của tôi về Nguyễn Du. Trong nước có thể tham khảo site: Tạp chí Văn Hóa Nghệ An: Phạm Trọng Chánh các bài viết: Bàn về bút hiệu Nguyễn Du Nguyễn Du từ Thái Nguyên sang Vân Nam năm 1787. Chia tay Nguyễn Đại Lang tại Liễu Châu. Nguyễn Du nhà sư Chí Hiên: Giang Bắc Giang Nam cái túi không. Nguyễn Du gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn tại Hoàng Châu 1790 Nguyễn Du: Người đi săn núi Hồng (1794-1796) Đi theo hành trình Nguyễn Du: Bắc Hành Tạp lục. Nguyễn Nể: Bậc kỳ tài. Vua Quang Trung nể vì học thức thường gióng ngựa quý tới thăm. Sách viết: Phạm Trọng Chánh Nguyễn Du Mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn. Paris 2011. PHẠM TRỌNG CHÁNH * Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V.

Sunday, March 31, 2024

Milky Way Black Hole

Milky Way black hole has 'strong, twisted' magnetic field in mesmerizing new image March 28, 20243:53 PM ET By Bill Chappell The black hole at the center of our galaxy has been compared to a doughnut — and as it turns out, this doughnut has swirls. Scientists shared a mesmerizing new image on Wednesday, showing Sagittarius A* in unprecedented detail. The polarized light image shows the black hole's magnetic field structure as a striking spiral. "What we're seeing now is that there are strong, twisted, and organized magnetic fields near the black hole at the center of the Milky Way galaxy," Sara Issaoun, a project co-leader and NASA Hubble Fellowship Program Einstein Fellow at the Center for Astrophysics at Harvard & Smithsonian, said in a statement about the image. https://media.npr.org/assets/img/2024/03/28/milky_way_polarization-emission_wide-3d85fd9afb65c2be83033f8120e307dee143733d-s2000-c85.webp
The supermassive black hole Sagittarius A* is seen at left, in polarized light. The center inset image shows polarized emission from the Milky Way's center, captured by SOFIA. The background image shows the Planck Collaboration's mapping of polarized emission from dust across the Milky Way. S. Issaoun, EHT Collaboration The image captures what the Event Horizon Telescope collaboration calls a "new view of the monster lurking at the heart of the Milky Way galaxy." The doughnut analogy also applies to distance: Because of the Milky Way's distance from Earth, looking at it from our planet is similar to seeing a doughnut on the surface of the Moon. Sagittarius A*, also often referred to as Sgr A*, is about 27,000 light years from Earth. The first image of the supermassive black hole was released two years ago, showing glowing gas around a dark center — and lacking the detail of the new image. Black holes are famous for being "effectively invisible," as NASA says. But they dramatically affect their surrounding space, most obviously by creating an accretion disk — the swirl of gas and material that orbits a dark central region. The first image of a black hole was released in 2019, when the Event Horizon Telescope project shared an image of the black hole at the center of galaxy Messier 87 (M87), some 55 million light years from Earth in the Virgo galaxy cluster. Although it's farther away, the black hole known as M87* is much larger than Sagittarius A*. When researchers recently compared views of the two black holes in polarized light, they were struck by their shared characteristics — most dramatically, those swirls. "Along with Sgr A* having a strikingly similar polarization structure to that seen in the much larger and more powerful M87* black hole," Issaoun said, "we've learned that strong and ordered magnetic fields are critical to how black holes interact with the gas and matter around them." https://media.npr.org/assets/img/2024/03/28/m87--and-sag-_wide-fd6f2ab824c59dc23bf2386cd5556b29fc89f392-s2000-c85.webp
Side-by-side images of M87* and Sagittarius A* reveal that the supermassive black holes have similar magnetic field structures, suggesting that the physical processes governing supermassive black hole may be universal. EHT Collaboration On a practical level, the black holes do have one stark difference: While M87* has a knack for holding steady, our Sgr A* "is changing so fast that it doesn't sit still for pictures," the researchers said in their announcement. At the time the Sgr A* observations were captured, the EHT collaboration was using eight telescopes around the world, linking them together to create a planet-sized, albeit virtual, instrument. The results of their work were published Wednesday in The Astrophysical Journal Letters. The collaboration is slated to observe Sgr A* again in April. https://media.npr.org/assets/img/2024/03/28/sgr-a-polarized-lg_custom-ad7159bbd991be6ecad3d21fe16f02a4e8cd7fff-s2000-c85.webp
For the first time, we're seeing the Sagittarius A* black hole in polarized light. The Event Horizon Telescope collaboration says the image offers a new look at "the magnetic field around the shadow of the black hole" at the center of the Milky Way. EHT Collaboration Source: https://www.npr.org/2024/03/28/1241403435/milky-way-black-hole-spiral-new-image-magnetic-field?ft=nprml&f=191676894 Related links: https://www.npr.org/2022/05/12/1098472567/image-black-hole-milky-way https://media.npr.org/assets/img/2022/05/12/black-hole-milky-way-bb0124cb43ed0a77533657759baa424f5d5fce7c-s1200-c85.webp
"It's the dawn of a new era of black hole physics," the Event Horizon Telescope team said as it released the first-ever image of supermassive black hole in the center of the Milky Way. EHT Collaboration https://www.npr.org/sections/thetwo-way/2018/04/04/599437677/new-study-shows-the-center-of-the-milky-way-has-thousands-of-black-holes Center Of The Milky Way Has Thousands Of Black Holes, Study Shows April 4, 20181:26 PM ET https://media.npr.org/assets/img/2018/04/04/black-hole-21_custom-0da5159f86ecf15be2d43fd936c06536370f8d92-s1200-c85.webp
An artist's rendering shows the Milky Way where a supermassive black hole lies at the center. A dozen smaller black holes have now been detected, and a new study suggests the monster is surrounded by about 10,000. Spitzer Space Telescope/NASA/JPL-Caltech/R. Hurt (SSC/Caltech) https://www.nature.com/articles/nature25029.epdf?sharing_token=vVPISqPldcSQg0DXyMLq4dRgN0jAjWel9jnR3ZoTv0M5Q6GKK4rIMKkO3ATJ9huPXMia9YlEmZtH8_6XMyr0t0JK8G-FzOMG6d1nmqVpiIvAyBhUUPN3I5UYbGQ0H69-oc4x-WGsO0y-8ZaRGh-oJMXwQ0IzLV4s19Uj1OkALjrbvZMre9ukru2NHI9SzbdUZ_EChFWyxUflViH_W2MRnw%3D%3D&tracking_referrer=www.npr.org https://media.npr.org/assets/img/2019/04/10/black-hole-a-consensus-32a870a982f0c4f503914c6006dfdd05366678f7-s1200-c85.webp
The first-ever image of a black hole was released Wednesday by a consortium of researchers, showing the "black hole at the center of galaxy M87, outlined by emission from hot gas swirling around it under the influence of strong gravity near its event horizon." Event Horizon Telescope collaboration et al https://www.npr.org/2019/04/10/711723383/watch-earth-gets-its-first-look-at-a-black-hole

Oppenheimer, những người Mỹ cộng sản và Đại học Berkeley

Bùi Văn Phú Vai trò, Gửi cho BBC từ Berkeley, California 26 tháng 3 2024 Tôi đã xem phim “Oppenheimer” chiếu ngoài rạp, một phần vì tiểu sử của nhà khoa học vật lý đã chế ra bom nguyên tử, từng giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học U.C. Berkeley và vì cũng muốn biết ngôi trường thân yêu của mình đã được lên phim như thế nào. Qua phim, khán giả có thể dễ dàng nhận ra tháp chuông Campanile, nhưng hình ảnh này chỉ thấy rất thoáng qua. Còn những nơi khác như LeConte Hall hay cảnh lớp học, phòng làm việc, cũng như Faculty Club House là nơi giáo sư Oppenheimer từng sống qua và làm việc trong thập niên 1930 và 1940 thì chỉ những ai từng học ở đây trong thiên niên kỷ trước mới có thể nhận ra. Không thấy những chỗ thân quen nhất trong sân trường là cổng Sather Gate hay Sproul Plaza như thường hiện lên trong các bản tin trên đài, trên báo khi có sự kiện liên quan tới trường. Cuối thập niên 1970, khi còn là sinh viên tại Đại học Berkeley, tôi đã có những giờ học vật lý trong LeConte Hall và thường đi ngang qua căn phòng lưu niệm của Giáo sư Oppenheimer. Thời gian đó, trong ban giảng huấn của trường đã có nhiều giáo sư được trao Giải Nobel. Về vật lý có Ernest Lawrence, Emilio Segrè và hóa học có Glenn Seaborg là những bậc thầy với lý thuyết khoa học cao quá mà tôi chưa hiểu được, tuy có được học với thầy Segrè một khóa. Còn Oppenheimer không được Giải Nobel nhưng là cha đẻ của bom nguyên tử đã được thả xuống Nhật để kết thúc Thế chiến II nên được nhiều sinh viên biết đến. Ngoài phim “Oppenheimer” được tung ra chiếu năm ngoái về một nhà khoa học trong ban giảng huấn Đại học Berkeley, từ ngày đến Mỹ, tôi đã được xem phim giải trí cũng như phim tài liệu gồm “The Graduate”, “Patty Hearst” và “Berkeley in the Sixties” có liên quan đến đại học danh tiếng này.
Nguồn hình ảnh, Chụp màn hình Chụp lại hình ảnh, Cảnh sân trường Đại học Berkeley với giáo sư Oppenheimer (đi giữa) và đồng nghiệp Phim “The Graduate” là chuyện tình của một cô sinh viên Berkeley, trong đó có bài hát quen thuộc với tôi từ ngày còn ở quê nhà là “Giàn thiên lý đã xa” qua giọng hát Thanh Lan mà khi xem phim tôi mới biết tên gốc bài hát là “Scarborough Fair”. Phim còn có ca khúc “Mrs. Robinson” và đặc biệt là bài “The Sound of Silence” nghe lần đầu tôi đã thích ngay. “Patty Hearst” là phim về một nữ sinh viên Đại học Berkeley có tên Patricia Hearst, 19 tuổi là con của gia đình triệu phú Hearst của giới báo chí, bị bắt cóc năm 1974 tại nhà ở Berkeley bởi nhóm vũ trang chống chính phủ Mỹ có tên Symbionese Liberation Army. Cô bị ép buộc lên tiếng chống chính quyền, ôm súng đi cướp ngân hàng vào thời điểm có nhiều bạo động chính trị trong vùng Vịnh San Francisco. “Berkeley in the Sixties” là phim tài liệu làm nổi bật sự ra đời của phong trào Free Speech Movement xuất phát từ Sproul Plaza trong sân trường vào thời Chiến tranh Việt Nam với hình ảnh vệ binh quốc gia bay trực thăng xịt hơi cay xuống để giải tán sinh viên đang biểu tình. Oppenheimer 'càn quét' Oscar lần 96 11 tháng 3 năm 2024 Oppenheimer và Einstein: Mối quan hệ phức tạp 1 tháng 8 năm 2023 1962: Ngày Liên Xô và Mỹ cận kề cuộc chiến hạt nhân 16 tháng 4 năm 2022 Từ ngày vào học tại đây, vì các hoạt động sinh viên của trường có nhiều liên quan đến Việt Nam, tìm hiểu thêm tôi được biết vào đầu thập niên 1960, Tổng thống John F. Kennedy đã thăm trường; cuối tháng 10/1963, bà Ngô Đình Nhu đã đến đây, được giáo sư khoa chính trị học Robert Scalapino giới thiệu để bà lên tiếng giải độc cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Phim “Berkeley in the Sixties” ghi lại lịch sử sự ra đời của Free Speech Movement (FSM) là phong trào đòi tự do phát biểu quan điểm chính trị trong khuôn viên đại học đã làm nổi lên phong trào chống Chiến tranh Việt Nam mà nhiều người cho là thiên cộng. Tôi thích các phim về danh nhân như “Gandhi”, “JFK” hay “Amadeus”, “Malcom-X” nên đã đi xem “Oppenheimer”. Phim có những câu chuyện liên quan đến hoạt động của cộng sản tại Đại học Berkeley từ thập niên 1930, như tôi mới biết thêm về nhà khoa học danh tiếng này. Bảng lưu niệm giáo sư Oppenheimer trong toà nhà khoa vật lý tại Đại học Berkeley
Nguồn hình ảnh, Bùi Văn Phú Chụp lại hình ảnh, Bảng lưu niệm giáo sư Oppenheimer trong toà nhà khoa vật lý tại Đại học Berkeley Qua phim “Oppenheimer” tôi mới hiểu rằng ngay tại thành phố Berkeley và trong khuôn viên đại học đã có những người theo cộng sản từ cả trăm năm trước, như người tình Jean Tatlock của Oppenheimer, là con gái của một giáo sư tại trường. Một người em của giáo sư cũng là đảng viên cộng sản. Khi đó nhiều giáo sư cũng đã thành lập nghiệp đoàn, trong đó có Oppenheimer, hoạt động theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và bị giới chức trong chính quyền Mỹ theo dõi vì nghi ngờ là cộng sản, hay làm lợi, làm gián điệp cho Liên bang Xô Viết. Trong liên hoan phim Oscars 2024 hai tuần trước, “Oppenheimer” đã được trao 7 giải, trong số đó có các giải phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất Christopher Nolan, diễn viên chính xuất sắc Cillian Murphy và diễn viên phụ xuất sắc Robert Downey Jr. Giáo sư J. Robert Oppenheimer là lý thuyết gia vật lý, giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh tại Đại học Berkeley từ năm 1929 đến 1943. Sau đó được chính phủ Mỹ chọn làm khoa học gia đứng đầu dự án Manhattan Project và ông đã chiêu mộ nhiều giáo sư vật lý và nghiên cứu sinh từ Berkeley cùng tham gia. Khởi xướng qua lý thuyết từ Đại học U.C. Berkeley, được đưa qua trung tâm thí nghiệm ở Los Alamos, tiểu bang New Mexico để thử nghiệm và nước Mỹ đã thành công trong việc chế tạo ra những trái bom nguyên tử đầu tiên. Tổng thống Harry Truman đã ra lệnh cho ném những trái bom này xuống Hiroshima ngày 4/8 và Nagasaki ngày 6/8/1945 khiến Nhật phải đầu hàng, đưa đến việc chấm dứt Thế chiến II. Khi gặp Tổng thống Truman, Oppenheimer tỏ ra không vui vì sức tàn phá của bom làm chết hàng trăm nghìn dân Nhật và quan ngại khi thấy chính phủ tùy tiện sử dụng bất kể hậu quả. Tổng thống Mỹ thì tỏ vẻ thất vọng và không muốn gặp “crying baby” nữa, ám chỉ nhà khoa học đã chế ra hai trái bom nguyên tử đầu tiên cho nước Mỹ. Ba giáo sư U.C. Berkeley trong thập niên 1930 là Robert Oppenheimer, bên trái, Glenn Seaborg và Ernest Lawrence
Nguồn hình ảnh, BerkeleySide.org Chụp lại hình ảnh, Ba giáo sư U.C. Berkeley trong thập niên 1930 là Robert Oppenheimer (bên trái), Glenn Seaborg và Ernest Lawrence Là cố vấn cho Ủy ban Năng lượng Nguyên tử của Hoa Kỳ, Giáo sư Oppenheimer lại không tán đồng việc nghiên cứu, chế tạo bom khinh khí hyđrô trong cuộc chạy đua vũ khí với Liên Xô, vì thế một số chính trị gia Mỹ đã đặt nghi vấn về lòng trung thành của nhà khoa học gốc Do Thái với nước Mỹ qua sự kiện ông từng có quan hệ với những đảng viên cộng sản Mỹ khi ở Berkeley, vợ ông là Katherine “Kitty” Puening cũng từng theo cộng sản. Một ủy ban gồm các nhà lập pháp Hoa Kỳ sau khi nghe điều trần đã quyết định không gia hạn giấy đặc quyền về an ninh –Security Clearance – cho ông. Đó là không gian nước Mỹ của thập niên 1950 khi mà trong Quốc hội Mỹ ủy ban điều tra những cá nhân bị nghi ngờ có liên hệ với cộng sản. Những cảnh trong phim như tháp Campanile, khu nhà lưu trú của các giáo sư, phòng học trong LeConte Hall nay trông vẫn quen thuộc như xưa. Chỉ có điều là trong những năm gần đây tên của tòa nhà khoa vật lý, nơi Oppenheimer có văn phòng, nhà trường đã xóa tên LeConte vì nhà khoa học này từng ủng hộ quan điểm “da trắng thượng đẳng”. Hôm 10/3 vừa qua, khi nam diễn viên xuất sắc Cillian Murphy lên nhận giải Oscars 2024, ông đã có phát biểu cho thấy thực tế hôm nay giống như thế giới 70 năm trước đây: “Chúng tôi làm phim về nhân vật đã chế ra bom nguyên tử, làm cho thế giới tốt hơn hay xấu đi, thì tất cả chúng ta hiện như đang sống trong thời đại của Oppenheimer.” Đó là một thế giới hiện có nhiều chia rẽ, xung đột và chiến tranh. Cũng như nước Mỹ cũng đã chia rẽ trong thời Chiến tranh Việt Nam và nay đang phân cực trong chính trị nội bộ có thể đưa đến bạo động. Bài viết kể về trải nghiệm và thể hiện văn phong của tác giả, một giảng viên đại học cộng đồng từ vùng Vịnh San Francisco, California, Mỹ.

Tuesday, March 12, 2024

Mô hình quản trị đại học Mỹ: Hai điểm không phù hợp với Việt Nam?

07 03 2024 Mô hình quản trị đại học Mỹ: Hai điểm không phù hợp với Việt Nam? Neal Koblitz Vài năm trở lại đây, phía Mỹ đã có một số nỗ lực giới thiệu hệ thống và tổ chức kiểu Mỹ tới lĩnh vực sau đại học ở Việt Nam. Đại học Fulbright được thành lập ở Việt Nam tám năm trước và USAID vừa có một dự án hợp tác với Đại học Quốc gia Hà Nội. Tuy nhiên, mô hình quản trị đại học Mỹ mà quan chức và các cơ quan Chính phủ Mỹ muốn xuất khẩu sang Việt Nam không hề phù hợp và do vậy, lời khuyên của họ không thực sự đáng tin cậy. Học phí của các trường đại học ở Mỹ đắt đỏ hơn nhiều so với mức tiết kiệm trung bình của người Mỹ khoảng 20.000 USD. Dưới đây là hai điểm không phù hợp có thể gây ra những tác động nghiêm trọng tới giáo dục đại học ở Việt Nam. – Các trường đại học lớn ở Mỹ được quản trị bởi một hệ thống tổ chức hành chính to lớn cồng kềnh và đắt đỏ. Đó là một trong những lí do chính khiến các trường Đại học Mỹ thu học phí rất cao. Tài trợ của chính phủ và đóng góp của các cựu sinh viên giàu có không đủ để chi trả cho bộ máy khổng lồ này. Học phí vẫn là nguồn doanh thu chủ yếu của đa số các trường đại học và nó đã tăng với tốc độ gấp đôi so với chỉ số giá tiêu dùng – vốn để đo mức độ lạm phát. Tôi là một trong số những “cán bộ học thuật” – những người làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu ở Đại học Washington. Theo Wikipedia, có gần 6.000 cán bộ như tôi ở trường nhưng có tới hơn 16 nghìn “cán bộ quản lý” – những người vận hành bộ máy quản trị khổng lồ của trường. Website của trường ước tính học phí và chi phí ăn ở cho một sinh viên năm nhất vào khoảng 35.000 USD với sinh viên đến từ bang Washington và 64.000 USD với sinh viên ngoài bang hoặc sinh viên quốc tế, những người phải trả học phí cao hơn rất nhiều. Đó là chưa kể đại học của tôi là đại học công lập; các đại học tư còn đắt đỏ hơn. Chẳng hạn như Đại học Stanford ở California ước tính chi phí một năm vào khoảng 88.000 USD cho cả sinh viên ở trong bang và ngoài bang. Để tiện bề so sánh, trung bình một người Mỹ hiện có khoảng 20.000 USD trong tài khoản tiết kiệm. – Những người quản lý và hội đồng tín thác thường có xu hướng nhìn một đại học như một công ty và sinh viên là khách hàng. Điều này khiến họ sử dụng một hệ thống khuyến kích “ngược”, theo đó họ động viên các khoa hạ chuẩn chuyên môn của khối đại học để làm hài lòng cả những sinh viên yếu nhất. Điều này dẫn đến việc “ngu hóa” các môn học (giảm nhẹ nội dung và khiến nó dễ hơn) và sự lạm phát điểm khủng khiếp (tăng điểm cho sinh viên mà không đòi hỏi họ phải cố gắng hơn). Những mô tả dự án do cán bộ Mỹ vẽ nên để nâng cao giáo dục đại học của Việt Nam đọc giống như một quảng cáo bóng bẩy của một công ty Mỹ đang bán hàng. Việc đánh giá tác động thực sự của những chương trình này sẽ như thế nào từ những thông tin đó là không thể, bởi những thông tin đó là không hề đủ để trả lời một số câu hỏi cơ bản nhất định. Những mô tả dự án do cán bộ Mỹ vẽ nên để nâng cao giáo dục đại học của Việt Nam đọc giống như một quảng cáo bóng bẩy của một công ty Mỹ đang bán hàng. Việc đánh giá tác động thực sự của những chương trình này sẽ như thế nào từ những thông tin đó là không thể, bởi những thông tin đó là không hề đủ để trả lời một số câu hỏi cơ bản nhất định. Trọng tâm của lời hứa hẹn mà các dự án từ phía Mỹ thông thường là muốn cải tiến “quản trị đại học”, nâng cao “năng lực quản trị,” và giúp một trường đại học triển khai một “hệ thống quản lý hiệu quả công việc” Câu đầu tiên mà ta nên hỏi là: “Đại học đó cần phải tuyển dụng bao nhiêu người để triển khai “quản trị đại học” và “quản lý hiệu quả công việc” kiểu này”? Liệu có phải tăng “năng lực quản trị” đồng nghĩa với việc làm phình to bộ máy quản lý nhưng vẫn giữ nguyên số lượng cán bộ giảng dạy – và như vậy là tăng tỉ lệ giữa số lượng nhà quản lý với các giáo sư và giảng viên? Nghe giống như một con đường dẫn đến sự phình đại bộ máy quan liêu tại các đại học Việt Nam. Đến đây, lại phát sinh một câu hỏi nữa: Ai sẽ chi trả cho việc mở rộng bộ máy quản trị đại học như vậy? Ai sẽ trả tiền để xây những tòa nhà để chứa hệ thống này? Nguồn vốn nào để trả lương cho những cán bộ phi giảng dạy và nghiên cứu mới? Liệu Chính phủ Việt Nam có đồng ý trả không? Liệu chính phủ có vay nợ của World Bank để trói Việt Nam vào những món nợ mới trong hàng thập kỉ tới? Hay là gánh nặng đó sẽ đặt lên vai sinh viên, phải trả học phí đắt hơn? Trong trường hợp này, chỉ có những gia đình giàu có hơn mới có khả năng đảm bảo việc học đại học cho con cái mình. Một điều rõ ràng là phía Mỹ sẽ chỉ đóng góp rất ít trong lượng kinh phí này. Các cơ quan công lẫn tư của Mỹ hiếm khi muốn tài trợ cho các trường đại học ở quốc gia khác, kể cả các trường đó là chi nhánh của các Đại học Mỹ. Và chi phí cần thiết để xây dựng một khuôn viên Đại học kiểu Mỹ – hoặc để nâng quy mô của một khuôn viên đại học để dung chứa một bộ máy quản trị lớn hơn theo đề xuất của những người Mỹ – là rất lớn, chưa kể đến những chi thường xuyên về sau liên quan đến việc bảo trì và trả lương. Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), mở ra với nhiều sự chào đón nồng nhiệt vào năm 2016, liên tục trì hoãn việc xây dựng cơ sở mà họ dự định. Hẳn là hội đồng quản trị FUV không biết làm sao để kiếm được một lượng tiền khổng lồ cần thiết để xây dựng và điều hành đại học của họ. Xuất phát từ một tình huống đặc biệt liên quan đến bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Mỹ vào năm 1994, vào năm 2014, Quốc hội Mỹ dành 20 triệu USD để khởi động FUV. Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ sẽ không cho thêm đồng nào nữa, và ngay từ đầu, một điều rõ ràng là để xây dựng một khuôn viên đại học mới cần hơn rất, rất nhiều 20 triệu USD. Đại học Fulbright Việt Nam. Nguồn ảnh: Fanpage FUV Tôi chỉ biết duy nhất một lần trong lịch sử khi Chính phủ Mỹ, cùng với các quỹ tư nhân đã hào phóng tài trợ cho việc thiết lập một đại học chất lượng cao ở một quốc gia đang phát triển. Đó là vào đầu những năm 1960. Trong một chuyến viếng thăm chính thức Mỹ, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru đề nghị Tổng thống Kennedy tài trợ một đại học kĩ thuật ở Kanpur. Trong bối cảnh địa chính trị của Chiến tranh Lạnh, việc kéo Ấn Độ (quốc gia trung lập lớn nhất trên thế giới) gần hơn với phương Tây và xa khỏi khối Soviet là mục tiêu quan trọng chiến lược. Kennedy hiểu rằng nếu ông ta nói “không” với yêu cầu của Nehru, Nehru sẽ quay sang nhờ sự giúp đỡ của Thủ tướng Soviet Khrushchev và Khrushchev sẽ đồng ý. Vậy là Kennedy nói “đồng ý”. Và Viện Công nghệ Ấn Độ ở Kanpur trở thành một trong những Đại học hàng đầu Ấn Độ. Nhưng một thời kì hoàn toàn khác và chẳng có lí do gì nghĩ rằng điều tương tự như vậy sẽ diễn ra ngày nay. **** Nhiều câu hỏi khác cũng cần phải đặt ra về “hệ thống quản lý hiệu quả công việc” mà phía Mỹ muốn xuất khẩu sang Việt Nam. Hệ thống này sẽ đánh giá hiệu quả công việc của ai? Đánh giá như thế nào? Ai đánh giá? Sử dụng phương pháp gì để đánh giá? Ví dụ, liệu năng suất nghiên cứu sẽ được đo lường bởi số công bố, bằng số trang của tất cả các công bố cộng lại, bằng chỉ số trích dẫn, bằng thư từ các đồng nghiệp đánh giá chất lượng của nghiên cứu, hay bằng cách nào khác nữa? Liệu phương pháp đánh giá có dựa trên đặc trưng từng lĩnh vực? Liệu với toán học có khác với y học không? Làm thế nào để hệ thống đánh giá hiệu quả công việc này tương thích với nguyên tắc, quy cách, tiêu chuẩn trong những ngành khác nhau? Có quy trình nào hóa giải những tranh cãi và bất đồng về phương pháp đánh giá? Liệu có một quy trình khiếu nại trong trường hợp các nhà nghiên cứu cảm thấy hiệu quả công việc của họ bị đánh giá bất công không? Hiệu quả công việc sẽ được đánh giá như thế nào trong những lĩnh vực gây tranh cãi như kinh tế, lịch sử, xã hội học và khoa học chính trị hay không? Làm thế nào để các hoạt động của nhà nghiên cứu nằm ngoài thể thức thông thường – chẳng hạn như kết nối với công chúng và trường học – được tính toán trong thang đo hiệu quả công việc? Liệu chương trình quản lý hiệu quả công việc có đo lường tất cả các khoa bằng một loạt tiêu chí giống hệt nhau? Liệu những người quảng bá hệ thống quản lý hiệu quả công việc của USAID có dám tuyên bố chỉ cần một phương pháp để đánh giá các khóa học nghệ thuật, âm nhạc, lịch sử, khoa học máy tính, kỹ thuật hóa học và kinh doanh? Làm sao để hệ thống này sẽ cân nhắc sự khác biệt văn hóa giữa Việt Nam và Mỹ? Bằng chứng nào cho thấy hệ thống quản lý hiệu quả công việc nhập khẩu từ Mỹ sẽ hoạt động hiệu quả hơn cách mà Việt Nam hiện nay đang làm? Cuối cùng, bằng chứng nào cho thấy hệ thống quản lý hiệu quả công việc nhập khẩu từ Mỹ sẽ hoạt động hiệu quả hơn cách mà Việt Nam hiện nay đang làm? Trong nội dung quảng cáo về chương trình của mình, USAID đề cập rất nhiều đến “chuẩn đầu ra.” Họ hứa hẹn rằng sẽ “tăng chuẩn đầu ra” và cũng tăng “khả năng được tuyển dụng của sinh viên tốt nghiệp.” Nhưng không rõ USAID sẽ đo lường chuẩn đầu ra như thế nào. Họ định dùng điểm số cao trong các khóa học như một bằng chứng về đầu ra (như thế thì tất yếu sẽ khuyến khích việc lạm phát điểm số, giống như Mỹ)? Hay họ định dùng một bài kiểm tra chuẩn hóa nào đó? Ai được trao trách nhiệm đánh giá sinh viên đã học được bao nhiêu? Những người trong hay ngoài ngành học? Các giáo sư hay nhà quản lý? Hay chính bản thân sinh viên? Ở Mỹ, các nhà quản lý có xu hướng đặt sai niềm tin vào đánh giá của sinh viên về khóa học – tức là, các bảng hỏi sinh viên về ý kiến của họ đối với giảng viên. Tuy nhiên, một bài báo đăng tải ngày 4/12/2023 trên tờ The Chronicle of Higher Education (Biên niên sử về giáo dục đại học) của biên tập viên cao cấp Len Gutkin phân tích các nghiên cứu về sử dụng đánh giá của sinh viên đối với khóa học, và kết luận rằng lý thuyết cho rằng chất lượng giảng dạy có thể đo lường dựa trên đánh giá của sinh viên là “khoa học rác”. Một vài nghiên cứu, bao gồm một nghiên cứu cẩn trọng thực hiện tại Học viện Hàng không Hoa Kỳ phát hiện rằng các sinh viên học được ít hơn từ những giáo viên họ đánh giá cao so với những người họ không thích lắm. Có một tương quan khá rõ giữa điểm đánh giá của sinh viên với sự cho điểm dễ dãi của giảng viên. Áp lực phải được đánh giá cao đặc biệt đè nặng lên những cán bộ thời vụ – những người được tuyển dụng theo định kì hằng năm để dạy những khóa học ở trình độ thấp hơn (“thời vụ” nghĩa là họ không có một bảo đảm nghề nghiệp nào hết) – và bởi vậy thông lệ phụ thuộc vào phản hồi của sinh viên để đánh giá giảng viên đã đặt họ dưới áp lực phải nâng điểm cực lớn. Rõ ràng là các nhà toán học, khoa học và học giả ở Việt Nam có đủ năng lực để phát triển một hệ thống quản trị đại học và quản lý chất lượng mà không cần đến tư vấn sai lầm của USAID. Vào năm 1990, tôi có viết một bài báo có tựa đề “Liệu đánh giá của sinh viên có bất công với nữ giới” cho Tạp chí của Hiệp hội Nữ giới trong Toán học. Ở thời điểm đó đã có những nghiên cứu chỉ ra rằng, đứng trước hai bản mô tả giáo viên giống hệt nhau, ngoại trừ cái tên, sinh viên có xu hướng đánh giá mô tả đó cao hơn nếu giảng viên đó có cái tên của nam giới thay vì nữ giới. Tôi kết luận rằng những nhà quản lý nên cẩn trọng về việc sử dụng đánh giá của sinh viên, bởi vì đánh giá nhân viên dựa trên các dữ liệu phân biệt đối xử với phụ nữ là trái pháp luật và không phù hợp với đạo đức. Bài báo của Len Gutkin chỉ ra rằng thiên kiến của sinh viên đối với phụ nữ hiện cũng được liên tục ghi nhận trong các nghiên cứu gần đây. Mặc dù hầu hết nghề nghiệp trong giới học thuật đã có tiến bộ trong việc giảm phân biệt đối xử với phụ nữ và người thuộc chủng tộc thiểu số, việc dựa quá nhiều vào đánh giá của sinh viên đối với giảng viên vẫn là một trở ngại trong việc thăng tiến đối với những nhóm người vốn có lịch sử là nạn nhân của phân biệt và đối xử tàn tệ. Một lần nữa, chúng ta cần phải hỏi rằng liệu việc đánh giá chuẩn đầu ra theo đề xuất của USAID có đòi hỏi phải tuyển thêm những người phi giảng dạy và nghiên cứu không? Nếu có thì nó sẽ mở rộng bộ máy và tăng chi phí tại các đại học ở Việt Nam lên bao nhiêu? Liệu cụm từ “tăng khả năng được tuyển dụng của các sinh viên tốt nghiệp” có ngầm ý rằng các ngành học hướng đến những công việc được trả lương cao sẽ được ưu tiên hơn các ngành trong khối công lập, chẳng hạn như phần lớn các vị trí trong ngành khoa học cơ bản? Liệu ngành kinh doanh hay quản trị có được ưu ái hơn ngành toán học, hóa học và vật lý? Mặc dù tôi có nhiều nghi ngờ về giá trị lời khuyên và “hỗ trợ” trong các chương trình của Mỹ đối với giáo dục đại học ở Việt Nam, tôi vẫn tin rằng có nhiều ý tưởng hữu ích mà Việt Nam có thể nhập khẩu từ nước tôi. Chúng tôi có vài thành công trong việc tích hợp các ứng dụng trong các chương trình giảng dạy toán học và dần thoát li khỏi cách tiếp cận hẹp và kinh viện trong việc giảng dạy toán. Chúng tôi cũng phát triển các môn liên ngành cho sinh viên. Chúng tôi có các tài liệu tốt về ứng dụng và bồi dưỡng chuyên sâu toán học xuất bản dưới dạng sách giáo khoa, sách bài tập hoặc video trên Youtube – rất rẻ hoặc miễn phí. **** Việt Nam có nền tảng vững chắc trong nhiều lĩnh vực học thuật, bao gồm cả toán học. Tôi tin rằng không có bất cứ ở đâu trong lịch sử mà một đội quân du kích cách mạng có thể xuất bản một cuốn sách toán như ở Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, khi Việt Minh xuất bản sách giáo khoa về hình học của giáo sư Hoàng Tụy. Tôi ước giá như ở Mỹ, người ta cũng có một sự tôn trọng rộng rãi đối với giáo dục và với người thầy như ở Việt Nam. Rõ ràng là các nhà toán học, khoa học và học giả ở Việt Nam có đủ năng lực để phát triển một hệ thống quản trị đại học và quản lý chất lượng mà không cần đến tư vấn sai lầm của USAID.□ Hảo Linh dịch Neal Koblitz Giáo sư Toán học tại Đại học Washington