Saturday, January 4, 2020

Những gì tôi đã học được của Bác [Nguyễn Hiến Lê] tôi


Những gì tôi đã học được của Bác tôi
Chú thích : trong phần 2, các câu « viết nghiêng để giữa hai ngoặc kép » là trích nguyên văn trong cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê (4)

Bác viết ở nhà đường Kỳ Đồng, ảnh Hằng chụp hè 70

Sinh thời, Bác tôi khiêm tốn nghĩ 30 năm về sau còn có người đọc sách mình là tốt rồi. Vậy mà nay đã qua 34 năm, còn có nhà báo nhờ tôi viết về Bác để « góp phần khơi gợi sự quan tâm của bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ, về học giả » thì làm sao tôi từ chối được, dù biết là đời Bác tôi đã kể lại rõ ràng trong ba tập “Hồi kí” và các tư tưởng của Bác cũng đã được ghi đầy đủ trong các sách xuất bản. Không chuyên về văn chương, tôi phải nhường việc định « tầm vóc và đóng góp của học giả Nguyễn Hiến Lê đối với nền văn hóa miền Nam nói riêng và nước nhà nói chung» cho các chuyên gia về văn học Việt Nam, để chọn « lối thoát » nhỏ hẹp : viết về những gì tôi đã học được của Bác tôi. Không hề được Bác « giảng luân lí » cho nghe nên tôi chỉ biết chí hướng của Bác qua sách vở và nhất là học cách cư xử trong cuộc sống của Bác.
Trong đời chúng ta, ai cũng có một số giá trị và sở thích để hướng dẫn việc làm của mình. Những điều mà tôi mong nhập tâm, theo được Bác tôi một cách tự nhiên như một phản xạ không cần suy nghĩ là :
* Lời nói phải đi đôi với việc làm vì Bác tôi theo chủ trương : « làm rồi mới nói » như vậy lời nói cũng như « đinh đã đóng cột » dù việc có là « nói dễ hơn làm », cũng như khi muốn trách ai một điều gì ta phải chắc chắn nếu ở vào hoàn cảnh người đó, ta hành xử theo đúng được như lời mình dùng để chê trách.
* « Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi » : năm 78, Học giả Đào Duy Anh hỏi tại sao Bác tôi từ chối được vào bệnh viện Thống Nhất (dành cho cán bộ cao cấp ở TP.HCM) để chữa bệnh, Bác trả lời « Tôi có công gì với cách mạng đâu mà vô đó nằm ? ». 30 năm sau, tôi về Hà Nội để dự buổi Đại sứ Quán Pháp trao tặng các Viện Hạt Nhân Việt Nam cuốn “Thuật ngữ Công nghệ Điện hạt nhân Pháp-Việt-Anh” (dịch từ cuốn “Lexique Réacteurs à Eau Pressurisée” của hãng FRAMATOME), mà tôi đã dịch thiện nguyện (hoàn tất cũng vào ngày giỗ Bà ngọai tôi, năm Mậu Tý) cùng với một anh đồng nghiệp cũ, đã có công giúp tôi tập viết lại tiếng Việt nhân việc dịch sách này. Nhân dịp, tôi đến VARANS (Vietnam Agency for Radiation and Nuclear Safety) để bàn về dự án lớp đào tạo kỹ sư an toàn hạt nhân cho Viện, ông Viện trưởng ngỏ lời mời tôi và một bạn cùng sở cũ ở Pháp về họp, đi chơi Hạ Long, tôi vội cảm ơn và từ chối ngay với lí do dự án chưa thành, tôi hẹn khi nào công tác thiện nguyện có kết quả tốt cho VARANS rồi Viện hãy thưởng cho tôi đi tham quan.
* « Khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không » : Bác tôi tin là «cây bút » của mình có ích cho thanh niên hơn là dạy học nên đã có lúc từ chối chức Giáo sư ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Khi thấy « đủ ăn », Bác trao việc phát hành sách của mình cho các nhà chuyên nghiệp và chỉ còn tự xuất bản lấy những cuốn không ai nhận vì sợ bị lỗ ; Bác để hết thì giờ viết sách, ngay cả những cuốn rất « kén độc giả ». Tôi thì ngoài nghề kỹ sư trong một cơ quan của chính phủ Pháp, chỉ nhận làm việc thiện nguyện tư vấn, viết tài liệu phổ biến kiến thức về Điện Hạt nhân cho VINATOM.
* « Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm » : Những bài tiểu luận « bút chiến » của Bác, đăng trên Bách Khoa trong thập niên 60 về các việc thời sự, đã chứng tỏ điều này. Riêng tôi nhiều lần cũng đã phải « tranh đấu » đòi thà không cho đăng một bài phỏng vấn tôi còn hơn là để toà soạn sửa ngược ý tôi (thí dụ thay lời tôi nói : «… Tôi chỉ chuyên về an toàn hạt nhân nên vẫn còn những thắc mắc trên. Cho tới khi được trả lời rõ ràng những điều đó, tôi chỉ dám nhận công việc thiện nguyện phổ biến kiến thức bằng cách dịch sách chuyên môn hay viết các bài thông tin về an toàn nhà máy ĐHN mà thôi » bằng đoạn : «… Tôi sẵn sàng tham gia quá trình khó khăn này nếu được Chính phủ Việt Nam mời. Trước mắt, tôi đang dịch sách chuyên môn sang tiếng Việt và viết bài về an toàn nhà máy ĐHN, coi đấy như thiện nguyện phổ biến kiến thức cho quê nhà »)  
* Khi phải làm một việc gì thì « làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong », như vậy mới có được kết quả tốt . Để viết tác phẩm cuối cùng « Sử Trung Quốc » (1982), Bác tôi đã tham khảo gần 50 bộ sách cả Á lẫn Âu (với tài liệu chót ấn hành vào cuối năm 81) để có được những thông tin đầy đủ kết quả mới nhất lúc đó của ngành khảo cổ. Riêng tôi cũng theo phương pháp này trong lúc làm việc.
Ngoài những qui tắc sống trên, có những tư tưởng của Bác mà tôi hoàn toàn đồng ý :
- « Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng ». Tuy sống theo đạo đức nhà Nho, chống lối cúng bái của các chùa Đại Thừa (Bác tôi không khi nào vào lễ chùa mà chỉ đi thăm phong cảnh, kiến trúc cũng như đã dặn kỹ gia đình về sau không được xin lễ cầu siêu cho Bác) ; tuy không tìm hiểu nhiều về Phật giáo, nhưng quan niệm này của Bác rất gần với triết lý sống của Phật giáo Nguyên Thủy theo như Phật Thích Ca dạy.
- « Khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân » bởi vì các chính trị gia thời này ai cũng hứa hẹn tốt để được trúng cử rồi khi nắm quyền chỉ cố làm sao để giữ chức lâu thôi. Tất cả chủ trương chính trị của Bác tôi có thể tóm tắt : làm sao để cho dân được sống no ấm dưới một chính thể tự do. Đọc tựa tiểu luận « Con đường hoà bình », chúng ta có thể chờ đợi một đề nghị về chính sách, nhưng không : Bác chỉ đề cao « tinh thần bao dung của tổ tiên ta » và chứng minh tất cả các « ý thức hệ » về tôn giáo hay chính trị đã bị người ta dùng làm lí do để tranh chấp, đâm chém nhau từ bao nhiêu thế kỉ nay !
- Bác tôi : « sách nào cũng muốn đọc, môn nào cũng muốn biết và hễ thấy đề tài nào lí thú có ích thì tìm hiểu ; rồi truyền điều hiểu cho độc giả ». Trước 75, hàng năm Bác tôi đều đặt của các nhà xuất bản Pháp, bản tên các cuốn sách ra trong mỗi tháng để lựa chọn đặt mua. Bác viết không những nhiều đề tài mà còn đã được khen là biết dung hoà Âu Á để theo được tiến bộ mới và vẫn giữ được các truyền thống của dân Việt. Lúc về sau, Bác thường bảo con cháu, ở nơi không dùng âm lịch thì làm giỗ ông bà theo ngày dương lịch cho dễ.
.- Tinh thần viết văn của Bác tôi « có mục đích rõ rệt là phục vụ trong việc mở mang kiến thức cho thanh niên ». Mục đích này đã được đền đáp bằng hai kết quả là : quần chúng thường biết Bác như tác giả đầu tiên ở Việt Nam về loại sách « Học làm người » và những cuốn này cũng có nhiều người đọc nhất.
Tuy nhiên trong cả đời trứ tác, Bác đã bỏ khoảng một phần ba thời giờ để hoàn thành 20 tác phẩm (trong tổng số 120) về Cổ học Trung Hoa và được « nhà văn Võ Phiến bảo : Từ trước tới nay chưa có học giả nào, cựu học và tân học, mà có công giới thiệu cổ học Trung Hoa bằng ông Nguyễn Hiến Lê ». Nhờ đọc những cuốn khảo cứu tỉ mỉ và được phổ thông hóa với lối trình bầy mới, mà tôi đã có can đảm lao vào tìm hiểu một lĩnh vực tôi hoàn toàn mù tịt vì thiếu căn bản Hán văn. Nhớ lại : hè 1928 Bác tôi về Phương Khê để học thêm chữ Hán với Ông Bác Hai, nhờ đó 42 năm sau tôi mở thêm được kiến thức về Hán học, một thế hệ lại qua… Bác tôi đã được thoả nguyện vọng « kế vãng khai lai » : « Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người ».
Nhân cách và trí năng của Bác đã thu hút tôi rất nhiều. Tuy thời gian được sống gần Bác rất ít, nhưng bấy nhiêu điều học được cũng đủ giúp tôi chọn một lối sống tinh thần phong phú, trọn vẹn với lương tâm và vui vì trong đời tôi vẫn còn rất nhiều điều để học hỏi.
Tô Lệ Hằng
Source: