Sunday, October 31, 2021

TÂM LÀ GÌ?

TÂM LÀ GÌ? Tiến sĩ Alexander Berzin, Matt Lindén Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác. Khái niệm về “tâm” thì mơ hồ, và các ngôn ngữ khái niệm hóa nó theo cách khác nhau. Trong nhà Phật, chữ tâm theo tiếng Phạn là chitta, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Nó bao gồm nhận thức giác quan, ý tưởng bằng lời nói và ý tưởng trừu tượng, tình cảm, cảm giác hạnh phúc và bất hạnh, sự chú ý, tập trung tinh thần, trí thông minh và nhiều hơn nữa. Khi nói về tâm thì đạo Phật đề cập đến tất cả các dạng hoạt động tinh thần. Trọng tâm không phải là nền tảng vật chất như bộ óc, hệ thống thần kinh, kích thích tố (hormones) và v.v…., cũng không phải là hoạt động hóa chất hay điện liên quan trong đó. Đạo Phật không phủ nhận bất cứ yếu tố nào kể trên, bởi vì đương nhiên là chúng hiện hữu, và góp phần một cách tổng thể. Tâm cũng không đề cập đến “điều gì” phi vật chất ngự trị trong bộ óc và tạo ra hoạt động của nó. Hơn nữa, đạo Phật không xác nhận một tâm thức vô thức tập thể hay phổ quát. Hoạt Động Tinh Thần Là Gì? Nếu như tâm và hoạt động tinh thần là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về điều gì, vậy thì nổi giận có nghĩa là gì, chẳng hạn vậy? Nó là sự phát khởi của sự giận dữ và cảm giác về nó, xảy ra cùng một lúc. Chúng cùng nhau mô tả một sự kiện trong một dòng tương tục, kinh nghiệm điều gì đó. Kinh nghiệm của ai? Nếu tôi nổi giận thì đó là kinh nghiệm của tôi, không phải của bạn, nhưng không có một cái tôi riêng rẽ bấm nút giận trên cái máy gọi là “tâm” – chúng ta chỉ đơn thuần là một phần của sự kiện kinh nghiệm. Điều này tương tựa như khi ta thấy một cái gì đó, như trái táo. Từ sự hiểu biết của khoa học thì các tia sáng đi vào mắt qua giác mạc, gặp gỡ các tế bào tiếp thu hình ảnh của võng mạc. Điều này tạo ra xung lực truyền tải thông tin quang học đến bộ não, nơi nó được xử lý. Kinh nghiệm chủ quan của điều này là sự xuất hiện của tâm ảnh ba chiều của quả táo, và đây là ý nghĩa của việc nhìn thấy nó. Tuy nhiên, tâm không phải là không gian trống rỗng ở đâu đó trong não mà từ trong đó, hình ảnh ba chiều của quả táo phát sinh, như được gợi ý từ sự diễn đạt "có cái gì đó trong tâm trí". Tâm ảnh ba chiều cũng có thể là biểu hiện của âm thanh, mùi hương, vị nếm và cảm giác thân thể, thậm chí trong trí tưởng tượng và chiêm bao của chúng ta. Hình ảnh của sự phát sinh của một tâm ảnh ba chiều còn có thể mô tả sự phát sinh của cảm xúc và các mức độ hạnh phúc hay bất hạnh, dựa vào sự bài tiết của kích thích tố từ các bộ phận khác của bộ não. Vào bất cứ lúc nào, nội dung của tâm ảnh ba chiều của chúng ta là sự phức tạp của nhiều yếu tố: một đối tượng, chẳng hạn như một hình ảnh hay tư tưởng, với sự kết hợp của cảm xúc, cộng thêm mức độ nào đó của cảm giác hạnh phúc hay bất hạnh. Khoa Học Thần Kinh Và Phật Giáo Từ khi Đức Dalai Lama và nhà thần kinh học Francisco Varela người Chile khánh thành Mind and Life Institute (Viện Tâm Thức Và Đời Sống) năm 1987 thì các nhóm khoa học gia quốc tế và các bậc thầy uyên bác trong đạo Phật đã khảo sát sự giao thoa giữa tâm và bộ não. Các nhà thần kinh học đã theo dõi hoạt động não bộ của những thiền sinh mới và các thiền sinh có nhiều kinh nghiệm, cho thấy việc thiền định lâu dài ảnh hưởng đến tính khả biến thần kinh (neuroplasticity) của bộ não, tạo ra những đường dây thần kinh mới, giúp cho việc tập trung tinh thần và phát triển cảm xúc tích cực như lòng bi trở nên dễ dàng hơn. Cho đến nay, các phát hiện của khoa học phương Tây và Phật giáo đã bổ sung cho nhau và giúp cho cả hai lãnh vực trở nên phong phú hơn, và sự hợp tác giữa các hành giả đạo Phật và các nhà khoa học ưu tú là dấu hiệu của điều mà Đức Dalai Lama kêu gọi, đó là Phật giáo thế kỷ 21. Hoạt động tinh thần của việc trải nghiệm cuộc sống là điều mà Phật giáo cho là "tâm thức." Hoạt động này thay đổi trong từng khoảnh khắc và luôn có các tâm sở (mental factors) đi kèm theo. Phật giáo dạy rằng chúng ta không phải là nạn nhân của bất cứ điều gì mà cuộc sống đem đến cho mình, mà đúng hơn là chúng ta đóng một vai trò toàn diện trong cách mình trải nghiệm cuộc sống và những gì mình sẽ kinh nghiệm. Nhờ cách luyện tâm, ta có thể triệt để chuyển hóa kinh nghiệm của mình để chúng trở thành tốt đẹp hơn, và với nỗ lực lâu dài, sự thay đổi tích cực này sẽ trở nên dễ dàng, không cần nỗ lực. (Theo Study Buddhism by Alexander Berzin) Xem thêm: Tâm Trong Đạo Phật - Hòa Thượng Giới Đức thuyết giảng tại Houston, Texas Tâm Trong Đạo Phật (Thích Nữ Hằng Như) Chữ Tâm Trong Đạo Phật (Thích Nữ Pháp Hỷ) Tâm Là Gì? Tiến sĩ Alexander Berzin, Matt Lindén Source: https://thuvienhoasen.org/a36767/tam-la-gi-tien-si-alexander-berzin-matt-linden

COP-26: Đất lở núi tan rồi, liệu người VN có chờ hành tinh cũng tan chảy?

COP-26: Đất lở núi tan rồi, liệu người VN có chờ hành tinh cũng tan chảy? • Cao Vĩnh Thịnh • Gửi cho BBC từ Hà Nội 29 tháng 10 2021 https://www.bbc.com/vietnamese/forum-59090653 Thượng đỉnh khí hậu LHQ COP26 là gì? Hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (COP26) nhóm họp ở Glasgow, Scotland, Anh quốc năm nay là chủ đề mà tôi được nghe nhiều nhất từ những người bạn trong mấy ngày qua, có người chia sẻ với sự hào hứng tích cực còn một vài bạn thì không. Họ ngao ngán và thấy bất lực như chính cảm giác của tôi, khi tôi đối diện với vấn nạn môi trường và biến đổi khí hậu tại Việt Nam vậy. Nhưng cho tới cùng, đối với cá nhân tôi, thì tôi thấy hội nghị COP26 rất quan trọng nếu không nói là "cực kỳ quan trọng với toàn nhân loại", các quốc gia tham gia hội nghị cần có sự thống nhất chung và quyết tâm để cứu hành tinh này. Chưa kể tới các quốc gia đều nhận thấy rõ đó là, ở nhiều nơi trên toàn cầu đang phải đối mặt với xác suất xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng nhiều hơn. COP26: Việt Nam có sẵn sàng chống biến đổi khí hậu? COP26: Trung Quốc không cam kết gì mới về chống biến đổi khí hậu COP26: Nước nào vận động để thay đổi phúc trình? Nồng độ khí nhà kính đạt mức cao mới vào năm 2020 Tôi may mắn là người được đi thăm thú nhiều nơi ở Việt Nam, được nhìn thấy rất nhiều cảnh đẹp hùng vĩ mà tạo hoá ban tặng cho mảnh đất hình chữ S và con người Việt Nam. Nhưng cũng vì thế nó giải thích tại sao mà tôi cũng như một số bạn bè hay buồn phiền, không buồn làm sao được khi phải chứng kiến hay được nghe kể những câu chuyện về con người, họ không gìn giữ lấy mà đang ngày đêm nghĩ thật nhiều cách lách luật để tàn phá môi trường tự nhiên. Tàn phá vẻ đẹp hùng vĩ mà tạo hoá đã ưu ái ban tặng, cũng như phá huỷ đi những điều tốt đẹp cho thế hệ tương lai. Từ đất chảy Tây Nguyên... Có một lần trong chuyến đi công tác vào cuối năm 2020 của tôi, tôi được gặp và nghe nhà văn Nguyên Ngọc tâm sự. Ông kể về cuộc hành trình của cuộc đời ông để gìn giữ rừng Tây Nguyên. Các bạn có biết không đã từng có một vùng đất Tây Nguyên vô cùng khác với hiện tại, Tây Nguyên không phải là cao nguyên duy nhất mà là một loạt các cao nguyên liền kề. Chúng đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao chính là Trường Sơn Nam. Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ Bazan ở độ cao khoảng 500m đến 600m so với mặt biển, Tây nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn. Thế nhưng, vào cuối tháng 10 và đầu tháng 11 năm 2020 mùa bão lũ ập đến và nhà văn Nguyên Ngọc đã gọi tên chính xác thảm hoạ này là " Đất Chảy". Ông giải thích đơn giản như thế này: Khi còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên bề mặt đất, 95% sẽ ngấm xuống đất thành nước ngầm. Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại, chỉ có 5% ngấm xuống thành nước ngầm, hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất. Ngày này, nhìn thấy màu xanh đó nhưng chỉ toàn cây bụi lẹt đẹt với cỏ, với cao su, keo, cà phê - là những loại cây không có bộ rễ giữ nước ( mà các báo cáo với thống kê cứ gọi vống lên một cách gian dối là " độ che phủ" ), 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ, làng mạc và con người. Và đỉnh điểm của 2020 là đất chảy - từng quả núi, từng ngọn núi lớn nổ tung rồi chảy ra thành nước, thành thác, vùi lấp xóm làng, ruộng đồng, con người, nuốt gọn từng gia đình, từng cộng đồng người, tất cả, tất cả… Đến'bốc hơi' rừng thông Đak Đoa Rừng thông tại Đăk Đoa, thuộc huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai, bị tàn phá để làm sân golf (ảnh do tác giả bài viết cung cấp) Chúng ta cần nhớ là Việt Nam từng có hơn 30 triệu ha rừng tự nhiên. Hiện nó chỉ còn 41% diện tích, tức là 14 triệu ha được phủ xanh, trong đó 10 triệu là rừng tự nhiên, 4 triệu ha rừng trồng. Nếu diện tích rừng trồng được trồng bằng các loại cây hủy hoại môi sinh như cây keo thì thật là thảm họa lớn. Hay như vụ biến đất rừng Đak Đoa trở thành dự án sân golf chẳng hạn, họ chặt hạ đi toàn bộ cánh rừng thông có tuổi thọ 50 năm. Đầu năm 2021, nhiều chính sách phê duyệt của Chính Phủ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của dư luận. Ngày 1/4/2021, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã ký quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư dự án sân golf Đăk Đoa do Công ty cổ phần tập đoàn FLC làm chủ đầu tư với quy mô 174,01 ha đất rừng. Đấy chỉ một thời gian ngắn nữa thôi các bạn sẽ chỉ còn nghe về rừng thông Đăk Đoa như một câu chuyện ngày xửa ngày xưa, có một khu rừng thông thơm ngát mùi nhựa và vỏ thông, mùi đất. Trong những tán thông tiếng ve râm ran hoà với tiếng chim, bướm lượn từng đàn như những cánh hoa sáng chập chờn dưới nắng. Nơi đó còn có đồi cỏ hồng Glar nổi tiếng, mọi người thường tới đó tản bộ và chụp những bức hình kỷ niệm. Những thứ đẹp đẽ tự nhiên đó sẽ được thay thế là sân golf, bất chấp những hậu quả như trôi đất, mất nguồn nước của bà con dân tộc sống tại khu vực. Hết rừng tự nhiên thì còn Vườn quốc gia, ví dụ ở Thanh Hoá có khu bảo tồn Vườn quốc gia Bến En, ở Vĩnh Phúc có khu bảo tồn Vườn quốc gia Tam Đảo v.v... Bây giờ, trong con mắt của những ông chủ tập đoàn lớn khi họ nhìn vào những khu rừng này chỉ giống như một miếng bánh ăn gọn. Chuyện làm bạn phát điên hơn thế có thể là việc bạn rất dễ nhìn thấy những hình ảnh giao bán công khai phân lô bán đất trên các trang website của họ, ngay cả khi dự án này còn đang trong thời gian chờ Chính phủ phê duyệt. Từ quan ngại với các tập đoàn vụ lợi Một phần hình ảnh Vườn quốc gia Tam Đảo ngày nay (hình do tác giả bài viết cung cấp) Vườn quốc gia Tam Đảo rất gần nơi tôi sống, để đi đến nơi đây tôi chỉ mất hơn một tiếng chạy xe máy. Khu rừng là lá phổi cực kỳ quan trọng điều hoà gần Hà Nội nói riêng và các vùng lân cận nói chung. Tuy nhiên, ngay trong chính lõi rừng của Vườn quốc gia Tam Đảo, tập đoàn Sun Group đã được duyệt dự án xây dựng khu phức hợp giải trí cao. Họ ngày đêm tàn phá không tiếc tay lõi rừng, chặt hạ cây rừng tạo đường đi lớn và xây dựng khu nghỉ dưỡng cho mục đích bất động sản. Ngày đêm xăm soi lùng xục đất đai, tài nguyên kiếm lợi riêng, họ bỏ ngoài tai mọi ý kiến phản đối, sự lo ngại về an toàn địa chất, nguồn nước, và rất quan trọng là yêu cầu khẩn cấp của việc bảo tồn đa dạng sinh vật học tồn tại trong lõi rừng quốc gia Tam Đảo, để tiếp tục các dự án làm ăn. Tôi thực sự thấy nực cười và có cảm giác xen lẫn giữa phẫn nộ và 'kinh tởm' khi họ chặt hạ cả một cánh rừng tự nhiên, rừng nguyên sinh, vườn quốc gia, phá tan hệ cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học, rồi họ thay vào đó là những căn nhà phân lô với một hệ sinh thái nhân tạo giả tạo, lòe bịp. Và họ khoác nên mình với cái tên mỹ miều là " Dự án du lịch kết hợp nghỉ dưỡng bền vững", " Du lịch xanh bảo tồn" v.v… khi vận động chính sách duyệt dự án từ Chính Phủ. Tới chờ đợi hành động cụ thể của tân Thủ tướng Còn nhiều và còn nhiều nữa những vấn nạn môi trường tương tự như vậy do các tập đoàn lớn gây ra và đằng sau họ - chắp cánh cho sự nghiệp làm giàu bằng mọi giá của họ là ai thì ai cũng biết. Tôi chỉ liệt kê một số những vụ điển hình để làm rõ cho các bạn hiểu hơn việc Chính Phủ Việt Nam đang làm gì để chống lại biến đổi khí hậu và tàn phá, hủy hoại môi trường. Tôi cho rằng chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu chỉ là cung cấp cho chúng ta sự "ảo tưởng về sự can thiệp và an ninh", nhưng trên thực tế phần lớn không xác định và giảm thiểu các nguyên nhân cơ bản của biến đổi khí hậu, hoặc tạo cơ sở cho một chiến lược thích ứng trung hạn và dài hạn để có thể thực sự đối phó và tôi cũng đã công khai trình bày quan điểm này của mình tại Bàn tròn thứ Năm của BBC News Tiếng Việt hôm 28/10/2021 với sự tham gia trong số các khách mời, là một nhà khoa học về Biến đổi Khí hậu đến từ Đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam. Tôi được biết trong hội nghị COP26 sắp diễn ra tại Glasgow sẽ có sự tham gia của Thủ tướng Phạm Minh Chính, mong rằng Thủ tướng trong kỳ hội nghị này sẽ có những cam kết chung thật mạnh mẽ với các quốc gia thành viên. Và khi quay trở về Việt Nam, Thủ tướng sẽ có những bước tiến lớn để cải cách chính sách luật môi trường cho thật sự bảo vệ được môi trường, quan tâm tới những nhóm người yếu thế, cần nhấn mạnh những giải pháp thích ứng hoặc lồng ghép biến đổi khí hậu vào quy hoạch phát triển. Nhất là vấn nạn phá rừng, biến đất rừng thành đất dự án… "Mối quan hệ sinh tử của sự sống là Đất và Nước được kết chặt vào nhau bằng Rừng. Năm mươi năm nay, với lòng tham vô độ, bất chấp mọi lời kêu cứu thất thanh, ta đã chặt đứt cái khâu sinh tử: Rừng. Phá sạch sành sanh rừng rồi. Không còn rừng, rừng tự nhiên, thì núi chảy ra như nước. Chảy hết núi rồi, thì đến gì nữa?," lời nhà văn Nguyên Ngọc vẫn còn văng vẳng bên tai. Và nếu chúng ta không đồng lòng để kéo phanh khẩn cấp thì chắc có lẽ câu trả lời cho nhà văn Nguyên Ngọc đúng nhất sẽ là: Hành tinh này cũng tan chảy nhanh thôi, mà trước hết có thể bắt đầu từ ngay mảnh đất hình chữ S này, phải không các bạn? Bài viết thể hiện văn phong và phản ánh quan điểm riêng của tác giả, một nhà hoạt động độc lập trong lĩnh vực bảo vệ, gìn giữ môi trường. Tác giả từng làm việc tại Thời báo Kinh tế Việt Nam, tốt nghiệp đại học Báo chí & Tuyên truyền và đang tu nghiệp về y khoa tại Hà Nội.Quý vị bấm vào đường dẫn này để theo dõi Bàn Tròn Thứ Năm với sự tham gia của tác giả và các khách mời PGS. TS. Lê Anh Tuấn từ Cần Thơ và nhà báo Nguyễn Giang, BBC News Tiếng Việt, từ London, thảo luận về Biến đổi khí hậu với Việt Nam và COP-26 nhóm họp tại Glasgow, Scotland, Anh quốc.

Tuesday, October 26, 2021

Nói cùng em...

Đường về xa… em nhé… đường còn xa… mình nghỉ đi em… đêm hun hút con đường ngọn mưa quất rát lòng anh đổ vỡ ôi! trời đất trút nỗi buồn muôn thuở tháng tới năm nào có mấy đổi thay kiếm miếng cơm manh áo sống qua ngày chúng mình mệt nhoài loe ngoe tạm bợ ngày vắt kiệt sức người vẫn hoàn nghèo khó leo nheo con khát sữa khóc đòi… tin chi em những hứa hẹn trên trời chân mình đạp đất làm sao với tới nơi những vì sao chấp chới cái thiên đường tô vẽ ở nơi đâu? cứ khóc đi em tựa vai anh vơi bớt cơn sầu anh đưa mình về quê tạm qua ngày rau cháo giữa phố phường không còn nơi nương náu Chẳng lẽ ôm con mong đợi những xót thương về nhé em, mình về lại quê hương ôm chặt con, đêm nay mưa lạnh lắm hãy nép vào anh chờ ban mai nắng ấm Đường về xa… em nhé… đường còn xa… Thiên Di Sài Gòn 9.10.2021 Source: https://www.nguoi-viet.com/vuon-tho-nguoi-viet/noi-cung-em-tho-thien-di/

Cookie Dương: ‘Tin giả tàn phá cộng đồng Việt từ trong ra ngoài’

26/10/2021 Những người lan truyền tin giả đánh vào nỗi sợ của cộng đồng gốc Việt tị nạn ở Mỹ để ‘kiểm soát suy nghĩ của họ’ và hậu quả của tin giả đã khiến nhiều gia đình tan nát và khiến họ có hành động gây hại cho lợi ích cộng đồng, một bạn trẻ gốc Việt đấu tranh chống tin giả nói với VOA. Trong vòng mấy năm qua, nhất là trong cuộc bầu cử tổng thống của Mỹ hồi năm ngoái, hàng loạt các kênh tin giả của người Việt xuất hiện trên các kênh mạng xã hội như YouTube và Facebook mỗi ngày đều lan truyền những tin tức thất thiệt hay bóp méo về chính trị Mỹ. Nhận thức được về tin giả và tác hại của tin giả đối với cộng đồng, nhiều bạn trẻ Việt đã tình nguyện tham gia vào công việc kiểm chứng thông tin, biên dịch để phổ biến thông tin chính thống đến với cộng đồng người Việt lớn tuổi vốn không đọc được tiếng Anh nên dễ trở thành nạn nhân của tin giả. Cô Cookie Dương, 23 tuổi, hiện đang làm công việc tư vấn kinh doanh tại Los Angeles, California, là một trong những bạn trẻ này. Cô là người sáng lập và điều phối trang Interpreter vốn chuyển dịch tin tức chính thống từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Nỗ lực của Cookie Dương và nhóm của cô đã gây được tiếng vang với kênh truyền hình HBO để họ làm một chương trình về nạn tin giả, khiến YouTube mới đây đóng cửa một kênh tin vịt vốn làm mưa làm gió trong cộng đồng người Việt thời gian qua. ‘Xây dựng cộng đồng lành mạnh’ “Rất nhiều người đã gửi những lời động viên đến Cookie và các bạn Interpreter, nhưng cũng có những lời lẽ rất khiếm nhã, nhưng con số đó rất nhỏ so với những lời động viên,” cô Cookie nói với VOA từ Los Angeles về hiệu ứng sau khi chương trình HBO phát sóng. Cookie Dương nói công việc của cô và nhóm Interpreter ‘hoàn toàn bất vụ lợi’, ‘để giúp đỡ cộng đồng’ và ‘để tạo sức mạnh cho cộng đồng gốc Việt tham gia vào chính trị Mỹ một cách lành mạnh’. Lý do cô khởi động dự án Interpreter hồi tháng 6 năm 2020 là ‘hết sức tình cờ’ khi cô vướng vào tranh cãi dữ dội với cha cô xung quanh cuộc biểu tình ‘Black Lives Matter’, cô cho biết. “Tôi nhận ra cách nhìn của tôi đối với các vấn đề nhức nhối của xã hội rất khác cách nhìn của ba. Ba tôi đang xem và đọc những kênh rất khác với những gì mà tôi đọc.” “Khi tôi tìm hiểu vấn đề để giúp mình hiểu ba hơn, tôi đã tình cờ thấy được nạn tin giả trong cộng đồng người Việt tại Mỹ,” cô Cookie nói thêm. Bắt đầu chỉ có mình cô, nhưng đến nay dự án Interpreter của Cookie Dương đã có đến 60 bạn trẻ là cộng tác viên, tình nguyện viên chuyên chuyển dịch tin tức từ các nguồn tin khả tín trên báo chí Mỹ, cô cho biết và mô tả những bạn trẻ này ‘rất có lý tưởng’, ‘rất yêu cộng đồng’ và cũng gặp vấn đề giống như cô là ‘có người thân trong gia đình là nạn nhân của tin giả’. Nhóm Interpreter của cô trong giai đoạn bầu cử hồi năm ngoái ‘đã rất vất vả’ vì trên mạng của người Việt tràn ngập tin giả, theo lời cô, và hiện nay tập trung vào việc đưa tin đúng về vaccine ngừa Covid-19 cũng như đẩy lùi những thông tin thiên lệch hay phân biệt chủng tộc. Cô cho biết nhóm của cô ‘không có thời gian để làm công tác kiểm chứng các tin giả được đưa trên các kênh mạng xã hội của người Việt’ vì ‘quá nhiều’. ‘Bịa chuyện và bóp méo’ Cô Cookie Dương, vốn đến Mỹ từ năm 11 tuổi và đã tốt nghiệp ngành Quan hệ Quốc tế ở Đại học Nam California, cũng trao đổi với VOA về những thủ thuật làm tin giả của những tay tin giả người Việt mà cô nhận ra được trong quá trình tìm hiểu. Theo cô, cách mà những tay tin giả này thường dùng là ‘bóp méo, cắt nghĩa thông tin theo ý đồ của họ để thao túng người đọc.’ Thứ hai, họ ‘lấy nguồn tin chủ yếu từ những trang cánh hữu, cực đoan’ – tức là một phần nhỏ bức tranh để khiến khán giả có cái nhìn sai lầm về toàn bộ bức tranh. Thứ ba là họ ‘bịa đặt những lời nói dối trắng trợn, chẳng hạn như ‘Biden có âm mưu với Trung Quốc hay có âm mưu với cộng sản, ngụy tạo hình ảnh Obama quỳ gối trước Iran…’, cũng theo lời Cookie Dương. Cô giải thích lý do nhiều người Việt mê mẩn nghe và tin theo tin giả như sau: “Do di sản tị nạn của họ, họ chạy trốn khỏi Việt Nam để đến cho nên cách duy nhất để họ tiếp cận chính trị là đóng khung mọi thứ vào cộng sản hay không cộng sản.” “Họ [những người làm tin giả] chạm vào nỗi sợ hãi của người Việt để có thể kiểm soát được họ, cũng giống như [cựu Tổng thống] Trump đánh vào nỗi sợ hãi của những người da trắng cực hữu rằng đất nước của họ đang bị người da màu xâm lấn,” cô phân tích. Giải thích vì sao có nhiều người Việt vẫn tin vào tin giả từ lần này đến lần khác mặc dù những thông tin này sau đó đều được thực tế chứng minh là ‘tin xạo’, cô Dương nói: “Rất ít người có thể tự nhận mình là sai, nhất là những người Việt lớn tuổi vốn được coi là đã đủ khôn ngoan.” “Nếu những kẻ tung tin giả đã lan truyền thuyết âm mưu thì cho dù kết quả có đi về hướng nào đi nữa thì họ vẫn có thể nói bẻ sang một âm mưu khác,” cô giải thích. Cô khẳng định nhờ vào việc lợi dụng sự nhẹ dạ của nhiều người Việt mà những người tung tin giả ‘có rất nhiều lợi nhuận từ số lượt xem, quảng cáo và bán hàng’. Tác hại của tin giả Do thông tin là sức mạnh nên cô Cookie Dương cho rằng hậu quả mà tin giả đem đến cho cộng đồng người Việt ở Mỹ ‘rất là tai hại’. Cô nói ‘nó tàn phá cộng đồng từ trong ra ngoài’. “Nhiều gia đình đã tan nát. Nhiều bậc cha mẹ đã quá cực đoan đến nỗi họ từ con, khiến những đứa con đã quay đi, không bao giờ nói chuyện với cha mẹ của họ nữa vì những ý kiến của cha mẹ họ quá kinh khủng để họ có thể tiếp tục kết nối với cha mẹ,” cô cho biết. Về phía cộng đồng Việt nói chung, cô Dương cho rằng khi những người Việt nhận thông tin sai lệch thì ‘họ sẽ đi bỏ phiếu đi ngược lại lợi ích của bản thân họ và có hại cho cộng đồng họ vì họ bầu cho những người không đại diện cho lợi ích của họ’. Về tác hại của tin giả đối với nước Mỹ, cô Dương nói: “Tin giả tìm mọi cách làm xói mòn niềm tin vào nền dân chủ Mỹ, luôn kết nối những âm mưu gì đó với Trung Quốc hoặc là với cộng sản.” Cô cho biết, giới trẻ gốc Việt khi biết được về trang Interpreter của cô đã lên trang lấy thông tin gửi cho cha mẹ họ xem và họ nói với cô rằng ‘nó rất có ích’. Cookie Dương nói cô ‘không mong tác động gì đến những người những người đã quá cực đoan’ mà ‘chỉ hướng đến giúp những người còn suy nghĩ lý trí’. Sau khi xuất hiện trên kênh truyền hình HBO, cô cho biết ba của cô ‘chỉ nói là ba sẽ coi’. “Ba của Cookie biết rằng dù ba có nói gì đi nữa cũng không thể thay đổi suy nghĩ của Cookie nên ba không tranh luận nữa,” cô cho biết. “Nhưng từ kinh nghiệm này ba mẹ Cookie sẽ rất cẩn thận khi đọc tin vì biết rằng con gái họ đang làm việc để chống tin giả.” Về tương lai của dự án Interpreter, Cookie Dương nói ‘sẽ tiếp tục đến chừng nào cộng đồng còn cần chống tin giả’ và cho rằng trong tương lai ‘cộng đồng sẽ cần việc kiểm chứng thông tin trực tiếp hơn’. Source: https://www.voatiengviet.com/a/tin-gi%E1%BA%A3-t%C3%A0n-ph%C3%A1-c%E1%BB%99ng-%C4%91%E1%BB%93ng-vi%E1%BB%87t-t%E1%BB%AB-trong-ra-ngo%C3%A0i-/6284814.html

Từ vụ Nguyễn Quang Tuấn: Thể chế chuyên biến giả thành thật và ngược lại!

Từ vụ Nguyễn Quang Tuấn: Thể chế chuyên biến giả thành thật và ngược lại! Trân Văn 25/10/2021 Tuy sự kiện Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa Nguyễn Quang Tuấn, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nội bị khởi tố vì “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” (1) không làm thiên hạ ngạc nhiên nhưng cảm xúc về sự kiện này trên mạng xã hội vẫn phức tạp, đó là sự đan xen lẫn lộn giữa buồn, tiếc và ngán ngẩm... Ông Tuấn, 54 tuổi, từng được xem là nhân vật tiêu biểu cho đội ngũ trí thức XHCN: Tốt nghiệp chuyên ngành Bác sĩ Đa khoa của Đại học Y Hà Nội. Tu nghiệp hai năm về tim mạch ở Toulouse (Pháp). Đạt học vị Tiến sĩ tại Việt Nam. Được phong hàm Phó Giáo sư rồi Giáo sư. Được tặng giải “Nhân tài Đất Việt”. Giám đốc Bệnh viện Tim Hà Nội. Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội. Được bầu vào Quốc hội Khóa 14. Đến Khóa 15 tiếp tục được chọn để tái ứng cử vào Quốc hội nhưng vài ngày trước khi dân chúng bỏ phiếu bầu đại biểu cho Quốc hội Khóa 15, ông Tuấn xin... rút lui vì người ta phát giác... có gian lận trong mua sắm thiết bị cho Bệnh viện Tim Hà Nội, thời ông là Giám đốc nơi này! Trong đợt dịch COVID-19 thứ tư vừa qua, ông Tuấn là người điều hành Trung tâm Hồi sức tích cực cho bệnh nhân COVID-19 Bạch Mai ở TP.HCM – nơi hàng ngàn nhân viên y tế, sinh viên Cao đẳng Y tế Bạch Mai được điều động từ Hà Nội vào hỗ trợ TP.HCM ngăn ngừa đại dịch... Đó cũng là điều khiến nhiều người nghĩ như Phạm Tuấn Anh: Buồn cho một thầy thuốc tài năng, giỏi về chuyên môn, đồng nghiệp nề phục về đức độ nhưng vẫn không tránh khỏi cái bẫy của cơ chế và những sai lầm trong công tác quản lý. Với ngành y, quá hiếm những người đáp ứng nổi việc làm chuyên môn giỏi, đồng thời là một người quản lý tài ba. Đáng tiếc cho nền y học nước nhà và cả cho bác ấy (2)! Hoặc như Cong Hoan Nguyen: Buồn vì ngành y lại mất một nhân tài và đau vì một thày thuốc có học hàm, học vị cao tột cùng, có năng lực lại sa chân vào vũng bùn tham nhũng (3)! Cũng đã có những người như Vũ Đức Tâm, tâm sự: Tôi đã ở Bệnh viện Tim Hà Nội một tuần. Trước khi làm Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, ông Tuấn là Giám đốc Bệnh viện Tim Hà Nội. Đó là một bệnh viện cực tốt và không có tệ phong bì. Ông Tuấn được biết đến là một trong những bác sĩ hàng đầu về tim mạch. Bác sĩ và người bệnh nói rằng ông Tuấn có công gây dựng nên sự thành công ở đấy. Trước đó, cũng tại Bệnh viện Bạch Mai, tiền nhiệm của ông Tuấn, Giáo sư Nguyễn Quốc Anh - một thầy thuốc mà tên tuổi, tài năng và y đức đều lừng lẫy, không thiếu danh hiệu nào, kể cả Anh hùng Lao động cũng đã bị bắt và cũng về tội danh tương tự như ông Tuấn (4)... Vì sao lại thế? Nhiều người đưa ra những lý giải khác nhau, trong đó có Dương Quốc Chính. Ông Chính đưa lên trang facebook của ông nhận định: “Ai cho quan làm người lương thiện?”: Trường hợp anh Nguyễn Quang Tuấn, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai bị bắt khá giống trường hợp anh Đinh La Thăng. Tức là có sai phạm nhưng vẫn được đề bạt lên chức vụ to hơn rồi bị bắt ở vị trí to hơn đó. Ở vị trí đương nhiệm thậm chí các anh còn muốn lập công chuộc tội. Anh Thăng không có tì vết khi làm Bí thư TP.HCM, thậm chí còn có nhiều động thái dân tuý, khiến cho nhiều người dân xúc động, tưởng chừng đã có một quan phụ mẫu vì dân như việc đập hè phố bởi anh Hải “cẩu” hay việc yêu cầu Vinamilk mua sữa của nông dân… Anh Tuấn thì cải tổ Bệnh viện Bạch Mai theo hướng giảm chi phí cho người bệnh, vừa rồi đích thân vào TP.HCM chống dịch nhiệt tình. Anh còn nằm trong danh sách được thủ tướng khen thưởng (trong danh sách ở vị trí 44) nhưng chưa kịp nhận thì đã bị bắt. Bằng khen sẽ được trao trong trại hay bị tước bỏ? Cả hai đều dùng TP.HCM làm nơi lập công chuộc tội nhưng đều không thoát, đều bị bắt vì những lỗi lầm trong quá khứ chứ không phải ở vị trí đương nhiệm. Trường hợp anh Tuấn kể ra cũng đau đớn khi người ta chờ lãnh đạo chống dịch xong rồi bắt, ngay trước khi kịp nhận bằng khen. Chuyện này làm mình liên tưởng đến trường hợp ông Vũ Ngọc Hải, nguyên Bộ trưởng Bộ Năng lượng, bị bắt vì để thất thoát trong dự án đường dây 500KV, rồi nhận kỷ niệm chương của Thủ tướng trong trại giam. Anh Chung “con” cũng vào lò sau khi chống dịch ở Hà Nội. Nhiều người vẫn nhớ tới phong cách chống dịch với những phát ngôn kiểu không còn gì để mất của anh. Đến mức thủ tướng phải lên tiếng cảnh cáo. Vừa rồi có doanh nghiệp lập công, tặng rất nhiều vaccine cho TP.HCM nhưng liệu có thoát tội do liên quan đến một số quan chức thành củi?Mình dự đoán là thời gian tới người ta sẽ thanh tra, kiểm toán ngân sách chống dịch và chắc chắn sẽ có một mớ quan lại vào lò. Vì dịch bệnh là cơ hội để anh em đốt tiền ngân sách, chỉ định thầu bừa bãi, ăn uống mạnh bạo hơn qua sân sau như việc test nhanh vô tội vạ chẳng hạn. Thời gian qua đã có anh Nguyễn Nhật Cảm, Giám đốc CDC Hà Nội vào lò - để lại bao nuối tiếc với giới y tế - vì liên quan đến việc thất thoát trong việc mua sắm thiết bị y tế. Không hiểu vụ đó có làm anh em chùn tay (5)? Dự đoán của ông Chính giống một dự đoán khác mà ông Mai Bá Kiếm nêu ra cách nay một tháng, khái quát tình trạng lãnh đạo ngành giáo dục và ngành y tế liên tục bị bắt vì cùng phạm tội “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Sau khi liệt kê hàng loạt vụ bắt giữ ba Giám đốc các Sở GDĐT ở Điện Biên, Thanh Hóa, Quảng Ninh trong vòng bốn tháng vừa qua và chín lãnh đạo ngành y tế các địa phương trong gần hai năm nay bởi ai cũng bắt tay với bên bán, nâng khống giá mua trang bị, thiết bị,... nhằm chứng minh đó là... bệnh mãn tính của cả hệ thống, hoàn toàn không có thuốc chữa! Cũng vì vậy, ông Kiếm bỡn cợt, sắp tới, có lẽ ngành tòa án nên soạn “án mẫu” khi xử viên chức lãnh đạo hai ngành giáo dục và y tế, còn các tòa soạn nên soạn “tin mẫu”, rồi tùy vụ mà sửa tên bị cáo, địa điểm phạm tội, thời gian! Ông Kiếm tin rằng: Nếu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho kiểm toán việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực phòng, chống dịch COVID-19 thì chắc chắn bộ phim dài này còn nhiều tập (6). *** Sự kiện ông Nguyễn Quang Tuấn bị khởi tố vì “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” là lý do ông Võ Đắc Danh dẫn lại một sự kiến khác cũng liên quan đến ông Tuấn, xảy ra cách nay khoảng hai năm. Hồi tháng 10 năm 2019, khi thảo luận về Dự luật sửa Luật Cán bộ công chức và Luật Viên chức, nhiều đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa trước (Khóa 14) cho rằng... phải tham khảo phương pháp chọn nhân tài của ông Hồ Chí Minh và dựa vào tư tưởng của ông Hồ Chí Minh để viết lại dự luật. Người duy nhất phản đối quan điểm này của đám đông đại biểu cho ý chí, nguyện vọng toàn dân là ông Dương Trung Quốc. Ông Quốc không đồng ý việc bê nguyên xi tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài vào dự luật và luật vì... Thời đại đã thay đổi, có những giá trị vẫn còn nhưng chúng ta phải nhìn nhận khác! Thời đó có những giá trị lớn hơn tiền bạc, ví dụ yêu nước. Phần lớn những người bác dùng được đào tạo ở chế độ cũ nhưng họ sẵn sàng hy sinh tất cả giá trị vật chất để thực hiện mục tiêu yêu nước!.. Lúc đó, ông Tuấn là người chỉ trích ông Quốc gay gắt nhất. Ông Tuấn nhấn mạnh: Cho dù thời cuộc có thay đổi, chúng ta đã có cơ chế thị trường, đồng tiền len lỏi vào từng người, từng nhà, từng cơ quan nhưng chúng tôi - những nhân sĩ trí thức, nhà khoa học, cán bộ viên chức đang làm việc trong nhà nước không phải vì tiền mà vì lòng tự tôn dân tộc, vì lòng yêu nước giống hệt các nhân sĩ cách đây 70 năm (7)... Nhân sự kiện ông Tuấn vừa bị khởi tố vì thông đồng nâng giá mua bán thiết bị cho Bệnh viện Tim Hà Nội, Võ Đắc Danh bày tuyên bố vừa kể của ông Tuấn cách nay hai năm bên cạnh một bình luận rất ngắn: Một trong những trí thức tầm cỡ quốc gia, Giáo sư Tiến sĩ, Đại biểu Quốc hội, phát biểu nghe rất rất là,... Ha ha ha (8)! Chú thích (1) https://dantri.com.vn/suc-khoe/giam-doc-bv-bach-mai-bi-khoi-to-bi-can-ai-se-tam-thoi-dieu-hanh-benh-vien-20211021190633480.htm (2) https://www.facebook.com/drtuananhpham/posts/10208978068205757 (3) https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=3041503166131490&id=100008155087990 (4) https://www.facebook.com/vuductamhaiphong/posts/3042582065976494 (5) https://www.facebook.com/chinh.duongquoc.56/posts/2180281792124772 (6) https://www.facebook.com/bakiem.mai/posts/1753183961540133 (7) https://plo.vn/thoi-su/db-tuan-co-dam-nhuong-chuc-cho-nguoi-gioi-hon-khong-866151.html (8) https://www.facebook.com/100001531817130/posts/4510808698980146/Source: Source: https://www.voatiengviet.com/a/nguyen-quang-tuan-bach-mai-vien-tim-ha-noi/6283530.html

TRÍ TUỆ LÀ SỰ NGHIỆP

TRÍ TUỆ LÀ SỰ NGHIỆP Sa môn Thích Phổ Tuệ
Bản ý của chư Phật vào đời chỉ vì một nhân duyên lớn là khai hóa cho chúng sinh tri kiến của chư Phật và cáo thị cho chúng sinh giác ngộ, chứng nhập tri kiến, tức trí tuệ của chư Phật. Nối tiếp chư Phật, các bậc hiền thánh Tổ sư khi tu hành cũng thường phát nguyện mong mau chóng diệt hết vô minh phiên não, sớm liễu ngộ được diệu tâm viên giác (Tâm không phiền não, đốn phá vô minh, viên giác diệu tâm, khuếch nhiên khai ngộ). Thiền sư Di Sơn Nhiên cũng nguyện: “Tâm Bồ đề không thoái chuyển, trí Bát nhã hiện tiền”. Tâm Bồ đề, kinh Lăng Nghiêm dạy là “Bản diệu tâm”. Diệu là không nhiễm ô, không tăng giảm v.v; luận Duy Thức gọi là chân tính Duy thức; Tâm kinh Bát nhã dạy: nhờ trí Bát nhã mà được vô thượng Chính đẳng Chính giác (Y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam Bồ đề). - Nhưng trí tuệ thường phân biệt thành 2 giải thuyết như sau: 1. Trí tuệ thế gian. 2. Trí tuệ xuất thế gian. - Trí tuệ thế gian lại chia thành 2 thuyết: 1. Học rộng, hiểu nhiều, tài cao, nghề nghiệp giỏi, giúp ích cho đời đạt tới Chân, Thiện, Mỹ, cũng là đáng quý. 2. Tỏ rõ thiện ác, phân biệt chính tà, làm những việc nên làm, thôi những việc nên thôi, thế là trí tuệ chân chính, sẽ được quả báo tốt lành. - Trí tuệ xuất thế gian cũng có 2 lối đốn tiệm khác nhau: 1. Phân biệt được chính pháp của Phật như Tứ đế, Lục độ v.v, dựa vào đó mà tu hành là trí tuệ xuất thế gian, dần dần vào được nhà Như Lai gọi là “tiệm nhập”. 2. Phá được vô minh, thấy được tính Phật nơi mình, được đại Giác ngộ một cách cứu kính nhanh chóng triệt để gọi là “đốn siêu” (mau lẹ). Tại sao? Cầu được gốc là “Đức”, không lo ngọn là “Tài”, được ngọn chưa hẳn được gốc. Trong Ngữ Lục Trúc Song, Tổ Châu Hoành dạy: Nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ, là nói lần lượt phát sinh như vậy cũng như 3 môn vô lậu học: Giới, Định, Tuệ. Trong lục độ: Bố thí, Trí giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ thì chỉ có trí tuệ là quan trọng hơn cả, không thể coi nhẹ được; chỉ có trí tuệ là cần thiết trước hết, chỉ có trí tuệ mới có thể thông suốt hết thảy pháp môn, không có gì bằng được. Cho nên, kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: thành tựu được giới luật, thành tựu được phép tam muội (Chính, Định, Thụ), thành tựu được phép thần túc bay đi, ba phép này tuy thành tựu được cũng khó, nếu được thì cũng thành số thường ở đời. Chỉ có thành tựu được trí tuệ Bát nhã là nghĩa đệ nhất, vì y vào trí Bát nhã mà được thành Phật. Trí Bát nhã có công dụng quán chiếu, thuộc trí tuệ vô lậu xuất thế. Vì sợ lẫn với tà trí, lậu vong, thường bị ngụy biện điên đảo, nên không dịch thành “trí tuệ” mà cứ để nguyên âm là Bát nhã, còn hàm hiểu nghĩa chân chính tuyệt đối. Trí tuệ Bát nhã thường được ví như ánh sáng mặt trời. Còn những trò gian tà, tham nhũng thường hay gây tội ác ở những nơi khuất ánh sáng ấy, bởi nội tâm bọn đó phần nhiều ám muội. Khi tính sáng chân trí bị vùi lấp đi, thì vô minh phiền não trỗi dậy, nên các bậc Cổ đức dạy: Tạm thời trí Bát nhã không hiện tiền, thì cũng như xác chết. Trí Bát nhã còn thường được ví như lửa. Có những vật ở đất thường mục ra, ngâm nước ẩm ướt thì mủn nhưng còn lại cặn bã, nếu chôn lấp hay dìm lâu trong nước thì dần dần mới tiêu diệt hẳn. Nhưng nếu bị lửa đốt thì ra tro ngay. Trí Bát nhã thường ví như đống lửa lớn. Thứ nước tham nhũng ái dục, bị lửa Bát nhã đốt ngặt cũng phải cạn, các loại củi phiền não gặp phải lửa Bát nhã là cháy. Loại đá ngu si ngoan cố bị lửa Bát nhã đốt cũng phải nhừ. Rừng rậm cỏ khô, tà kiến chướng ngại, và bao nhiêu tạp vật vọng tưởng khác nếu lửa Bát nhã bén vào cũng đều tiêu ra tro. Những loại côn trùng bọ mạt chỗ nào cũng bám được, nhưng lửa thì chúng không dám bám. Ví với tâm chúng sinh chỗ nào, vật gì cũng phan duyên tưởng tới nhưng không duyên tưởng tới trí Bát nhã. Về mùa nóng, nước lã để cách đêm, thì sinh trùng rất nhỏ, mắt phàm không thể nhìn thấy được. Cho nên, Phật dạy phải lọc nước mới dùng. Nếu nước ở trên lửa thì trùng không sinh. Nhân đó ta biết rằng Bát nhã như lửa đun nước, sức quán chiếu luôn luôn chói sáng, giữ được độ nóng không ngớt thì tư tưởng hèn xấu, mê hoặc, phức tạp, không thể nảy mầm ra được. Vậy nên trong kinh Bát Đại Nhân Giác, Phật dạy: “Người tu hành cầu đạo Bồ đề phải lấy Trí tuệ [Bát nhã] làm sự nghiệp”. Sa môn Thích Phổ Tuệ (Phật Tử Việt Nam) Source: https://thuvienhoasen.org/a5989/tri-tue-la-su-nghiep

Sunday, October 24, 2021

10 kỹ năng cần thiết để dạy trước khi con bước sang tuổi 13

10 kỹ năng cần thiết để dạy trước khi con bước sang tuổi 13 October 24, 2021 NEW YORK CITY, New York (NV) – Con cái khi được dạy các kỹ năng xã hội quan trọng sẽ có cuộc sống khỏe mạnh và thành công hơn khi trưởng thành, nhờ vào cách giáo dục và quan tâm của cha mẹ. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh tầm quan trọng của việc dạy cho con những kỹ năng cần thiết ngay từ khi còn nhỏ để con có thể hoàn thiện hơn trong cách suy nghĩ, hành động và xử sự. Và dưới đây là 10 kỹ năng quan trọng giúp con phát triển và lớn lên một cách tốt hơn trước khi bước sang tuổi 13, theo trang mạng Brightside. Tầm quan trọng của việc dạy cho con kỹ năng cần thiết ngay từ khi còn nhỏ để con hoàn thiện hơn trong cách suy nghĩ, hành động và xử sự. (Hình: Jessica Rockowitz/Unsplash) 1. Dạy con biết cách đứng lên vì bản thân và những người xung quanh Bạn hãy dạy con cách bảo vệ bạn thân của con. Môi trường ở trường học không thiếu việc con cái chúng ta phải chịu đựng những tin đồn không hay hoặc bị gọi bằng những cái tên khó nghe. Chính vì vậy, bạn hãy dạy con làm bạn với những học sinh mới, kết bạn với chúng để con mình vừa có bạn bè vui chơi với nhau, vừa là cơ hội để con học cách biết quan tâm và đứng lên bảo vệ người khác. 2. Học cách lắng nghe và cảm thông Bản thân cha mẹ trở thành một người biết lắng nghe sẽ làm gương tốt cho con cái. Đối xử với con bằng sự tôn trọng và thể hiện sự quan tâm đến những gì con muốn nói sẽ giúp rèn luyện bản thân con thành những người biết lắng nghe. Tương tự đối với sự đồng cảm, chính sự thể hiện khía cạnh đồng cảm của cha mẹ với con sẽ cho chúng một tấm gương tốt để noi theo. Việc này sẽ giúp con tập tính quan tâm đến người khác và tạo cơ hội cho con thể hiện sự đồng cảm sâu sắc hơn. 3. Giải quyết các bất đồng một cách thân thiện Xung đột giữa con trẻ luôn xảy ra, ngay cả giữa những người bạn thân nhất, vì vậy cha mẹ phải chuẩn bị cho con cách đối phó và giải quyết. Dạy con xác định nguồn gốc của xung đột và sau đó đưa ra các giải pháp giải quyết hòa bình. Cha mẹ chính là tấm gương phản chiếu về hành vi của con trẻ nên cần phải làm gương cho sự giao tiếp và cảm thông. Giúp đỡ cha mẹ là cách giúp trẻ học tính có trách nhiệm. (Hình: Mathide Langevin/Unsplash) 4. Biết xin lỗi và tha thứ Chỉ yêu cầu con nói “Con xin lỗi” là không đủ. Ba mẹ cần bảo đảm rằng con hiểu vì sao và con xin lỗi về những hành động con đã gây ra, chứ không chỉ là một lời nói đơn giản. Mặt khác, sự tha thứ vẫn là một vấn đề của nhiều người lớn. Đó là lý do tại sao chúng ta nên nhắc nhở con rằng sự tha thứ là quan trọng và chúng ta nên làm điều đó thường xuyên hơn. 5. Dần có trách nhiệm xung quanh Dạy con có trách nhiệm từ những việc nhỏ nhặt nhất như cất đồ chơi, giúp việc nhà hoặc chăm sóc thú cưng là điều cha mẹ nên rèn giũa từ khi còn nhỏ. Theo thời gian, con sẽ học được việc chịu trách nhiệm cho những việc cần phải làm, chứ không phải vì cha mẹ bắt buộc làm. Đó là chìa khóa để con thành công ở trường học và cuộc sống sau này. 6. Làm việc với những người khác Dạy con cách hòa đồng với những người khác sẽ giúp con làm việc như một thành viên linh hoạt khi hoạt động nhóm trong cuộc sống trưởng thành. Học cách làm việc theo nhóm sẽ giúp con có nhiều kỹ năng xã hội như tôn trọng, thỏa hiệp, khoan dung, kiên nhẫn, giao tiếp và đồng cảm. Con cũng sẽ phát triển sự tự tin và tin tưởng vào người khác, và những kỹ năng đó sẽ xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái sau này. 7. Chấp nhận sự thất vọng Con cũng cần phải học cách đối mặt với sự thất vọng. Cha mẹ phải học cách lắng nghe và nhìn nhận những gì con cái đang trải qua, sau đó đưa ra quan điểm và tìm kiếm giải pháp. Tập con biết rằng thất vọng là một phần của cuộc sống và không để sự thất vọng làm con nản lòng, nhưng thay vào đó, thể hiện niềm tin vào con sẽ rất quan trọng. Dạy con biết quan tâm và giải quyết những mâu thuẫn với bạn bè trong hòa bình từ khi con còn nhỏ. (Hình: Katherine Hanlon/Unsplash) 8. Học cách điều chỉnh cảm xúc Trẻ nhỏ thường không thể chế ngự những cảm xúc và bị cảm xúc lấn át. Nhiệm vụ của cha mẹ là hướng dẫn để con vượt qua điều đó. Cha mẹ cần dành thời gian để ý và ghi nhận cảm xúc của con, để con có thể tự học cách nhận ra các cảm xúc này. Là người lớn, cha mẹ cũng nên làm những điều tương tự, vì hành vi của cha mẹ là một tấm gương cho con. Cha mẹ nên chia sẻ cảm xúc của mình với con và sau đó cho con thấy cách mà bạn đối mặt và giải quyết các cảm xúc đó như thế nào. 9. Học cách quản lý thời gian Dạy con cách quản lý thời gian bằng cách đặt giờ đi ngủ và bảo đảm con tự học cách ngủ và thức dậy đúng giờ. Cha mẹ cũng có thể lên lịch và để con có thể tự sắp xếp cho các hoạt động và nhiệm vụ hằng tuần của mình. Việc thiết lập giờ ăn cố định là rất quan trọng vì con phải học rằng cả gia đình ăn cùng nhau và cùng một lúc. 10. Học cách lạc quan và yêu bản thân Cho con thấy mặt tươi sáng của mọi thứ, đánh giá cao nỗ lực của con và dạy con rằng đôi khi thất bại cũng không sao là điều cần thiết và quan trọng để xây dựng tinh thần lạc quan cần thiết cho con. Yêu thương bản thân cũng là một bài học cha mẹ cần dạy cho con. Dạy con tin tưởng vào bản thân và nhìn nhận bản thân tích cực bằng cách khen ngợi con và hỏi con về những gì con thích hoặc không thích ở bản thân mỗi ngày. Source: https://www.nguoi-viet.com/phu-nu/10-ky-nang-can-thiet-de-day-truoc-khi-con-buoc-sang-tuoi-13/

This is what climate change will look like in D.C.

This is what climate change will look like in D.C. October 22, 2021 Jacob Fenston From The Lincoln Memorial would eventually be on an island in the Potomac River, if the world keeps burning fossil fuels. Courtesy of/Climate Central The Lincoln Memorial, on an island surrounded by churning Potomac waters; Nationals Park, a bathtub surrounded by mid-rise office buildings flooded by the Anacostia River; the Pentagon, accessible by boat, with State Route 110 and the George Washington Memorial Parkway underwater. These are images of the possible climate-change-induced future in D.C., if the world continues on its current trajectory of greenhouse gas emissions. "The decision that we're making right now is which trajectory we're going to take," says Andrew Pershing, director of climate science with the nonprofit Climate Central. The group published a peer-reviewed research paper documenting the longterm threat that sea-level rise poses to the world's coastal cities. As part of the project, the group generated images of at-risk cities around the globe, with projections of future sea-level rise, depending on emissions trajectories. If the world continues on the current emissions pathway, we can expect roughly 3 degrees Celsius (5.4 degrees Fahrenheit) of warming by the end of this century. The Paris Climate Agreement aimed to limit warming to 1.5 or 2 degrees Celsius. Article continues below Sign Up For Breaking News Alerts Stay on top of the latest stories and developments, sent when news breaks. E-mail address By subscribing, you agree to NPR's terms of use and privacy policy. NPR may share your name and email address with your NPR station. See Details. This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply. "What we really wanted to illustrate with this study is that there there are big consequences that are baked in with the choices that we're making, and these consequences are going to play out not just over decades, but over generations to come," says Pershing. "They're going to potentially reshape the coastlines around the world." These images represent predictions of the longterm sea-level rise that will eventually result, if the globe warms 3 degrees. This rising of the oceans could take centuries, even after carbon emissions stop, as glaciers and ice sheets melt. Even if global carbon emissions were to magically end tomorrow, the oceans would still rise several feet due to the greenhouse gasses already in the atmosphere. D.C. doesn't face the same sort of risk from sea-level rise as cities closer to the ocean, but the District's two rivers, the Potomac and the Anacostia, are both tidal within the city limits, meaning they are directly influenced by the ocean's tides and level. Later this month world leaders will meet in Glasgow, Scotland, for a climate conference, the COP26, where they will announce plans to cut emissions over the next decade. To keep below 1.5 degrees of warming, the world would need to reach net zero emissions by 2050. The images from the study show that with deep emissions cuts, keeping warming to 1.5 degrees, sea-level rise would be substantially mitigated. In D.C., with 1.5 degrees of warming, the Lincoln Memorial would not be an island, the Pentagon parking lots would be dry, as would the neighborhood around Nationals Park. Much of the D.C. area is on relatively high ground; but other areas in the Mid-Atlantic are not so fortunate. With 3 degrees of warming, much of the Eastern Shore would eventually be inundated. This includes all of the barrier islands, such as Assateague, and all the popular Atlantic beaches, such as Ocean City and Rehoboth. On a global scale, 10% of the world's population currently lives in areas that would be underwater at high tide with 3 degrees of warming, according to the study. This story is from DCist.com, the local news website of WAMU. Source: https://www.npr.org/local/2021/10/22/1048360444/this-is-what-climate-change-will-look-like-in-d-c Related Link: https://www.voatiengviet.com/a/tin-gi%E1%BA%A3-t%C3%A0n-ph%C3%A1-c%E1%BB%99ng-%C4%91%E1%BB%93ng-vi%E1%BB%87t-t%E1%BB%AB-trong-ra-ngo%C3%A0i-/6284814.html ...Nói chung, 59% người Mỹ cho biết sự ấm lên của trái đất là một vấn đề rất quan trọng hoặc hết sức quan trọng đối với họ, tăng từ mức 49% vào năm 2018. 54% người Mỹ cho rằng tiếng nói của các nhà khoa học có ảnh hưởng lớn đến quan điểm của họ về biến đổi khí hậu, và gần 51% cho biết quan điểm của họ bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan gần đây như bão, các đợt nắng nóng gây chết người, cháy rừng và các thảm họa thiên nhiên khác trên khắp thế giới. …. Cuộc thăm dò cho thấy 75% người Mỹ tin rằng biến đổi khí hậu đang xảy ra, trong khi 10% tin rằng không phải vậy. 15% khác không chắc chắn. …. Trong số những người nói rằng nó đang xảy ra, 54% nói rằng nó chủ yếu hoặc hoàn toàn do các hoạt động của con người gây ra so với chỉ 14% những người nghĩ - không chính xác, theo các nhà khoa học - rằng nó chủ yếu do những thay đổi tự nhiên trong môi trường gây ra. 32% người Mỹ khác tin rằng đó là sự kết hợp giữa các yếu tố con người và tự nhiên. Và trong khi các đảng viên Dân chủ có nhiều khả năng nói rằng biến đổi khí hậu đang xảy ra hơn các đảng viên Cộng hòa, đa số thành viên cả hai đảng đều đồng ý rằng đúng như vậy. Con số này cụ thể là 89% đảng viên Dân chủ và 57% đảng viên Cộng hòa. Cuộc thăm dò cũng đánh giá mức độ sẵn sàng chi trả của người Mỹ đối với chi phí cắt giảm ô nhiễm do khí hậu gây ra cũng như để giảm thiểu hậu quả của nó. 52% cho biết sẽ hỗ trợ 1 đôla một tháng phí carbon trên hóa đơn năng lượng của họ nhằm chống lại tình trạng biến đổi khí hậu, nhưng sự ủng hộ sẽ giảm dần khi phí tăng lên. Net zero là gì và các nước thực hiện ra sao? 19 tháng 10 2021 Chính phủ Anh sẽ sớm công bố kế hoạch nhằm đạt mục tiêu "net zero" về khí thải nhà kính trước năm 2050. Đây là một mục tiêu chủ chốt nhằm giảm lượng khí thải nhà kính có hại và chống biến đổi khí hậu. Vậy net zero là gì? Net zero có nghĩa là không thêm vào tổng lượng khí nhà kính thải ra khí quyển. Khí thải nhà kính như carbon dioxide (CO2) được thải ra khi chúng ta đốt dầu mỏ, khí và than phục vụ cho nhà ở, nhà máy và các phương tiện giao thông. Điều này gây ra hiện tượng ấm lên toàn cầu bằng cách không cho năng lượng mặt trời thoát ra. Theo Thỏa thuận Paris 2015, 197 quốc gia đồng ý nỗ lực giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 1,5C để tránh các hậu quả tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Các chuyên gia nói để đạt được mục tiêu này, các quốc gia cần giảm lượng khí thải CO2 về mức net zero trước năm 2050. Liệu net zero có thể hoàn toàn chấm dứt khí thải CO2? Không phải tất cả các hoạt động gây khí thải đều có thể được giảm xuống zero, vậy nên các hoạt động đó cần phải được bù lại, chẳng hạn bằng cách trồng thêm cây xanh. Gần như tất cả các quốc gia đã bắt đầu trồng cây như một biện pháp giảm carbon ít tốn kém. Tuy nhiên, chúng ta còn đủ chỗ để trồng số cây xanh cần thiết hay không vẫn là một câu hỏi. Thu gom và lưu cất carbon cũng được coi là một giải pháp công nghệ. Công nghệ này dùng máy móc để loại bỏ carbon khỏi không khí, sau đó làm rắn khí thải này và chôn nó dưới lòng đất. Tuy nhiên, công nghệ này vẫn còn khá mới, có chi phí cao và cho tới nay chưa được chứng minh về hiệu quả. Dự án 'jet zero' của chính phủ Anh xem xét các phương án để cắt giảm khí thải từ ngành hàng không Cần có các biện pháp nào để đạt net zero? Đạt mục tiêu này là điều không dễ: để đạt net zero, toàn bộ khí thải từ nhà ở của chúng ta, cách chúng ta đi lại và những gì ta ăn đều bị ảnh hưởng. Nó sẽ gồm việc chuyển từ dùng nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo, từ bỏ xe cộ chạy bằng xăng và dầu, và thay vào đó là dùng xe chạy điện hay hydrogen. Các hệ thống sưởi trung tâm bằng khí đốt cũng cần phải được thay thế bằng các nguồn nhiêu liệu khác, như bơm khí nóng. Để đạt được net zero cũng có nghĩa chúng ta phải đi lại bằng máy bay ít hơn trong tương lai, và thậm chí ăn ít thịt đỏ hơn. Anh Quốc thực hiện mục tiêu này đến đâu? Thủ tướng Anh Boris Johnson gần đây tuyên bố tất cả năng lượng của Anh sẽ đến từ các nguồn tái tạo trước năm 2035, và chính phủ sẽ sớm công bố chiến lược net zero trong tuần này. Một số biện pháp đã được công bố từ trước gồm: • Cấm bán xe hơi chạy bằng xăng hay dầu trước năm 2030 • Tăng công suất điện gió ngoài khơi lên gấp bốn lần trước 2030 • Tăng sử dụng năng lượng hạt nhân • Đầu tư vào năng lượng hydrogen có carbon thấp • Lắp đặt 600.000 bơm khí nóng mỗi năm cho tới 2028. (Máy bơm khí nóng sẽ đưa hơi nóng quanh một tòa nhà vào hệ thống sưởi trung tâm.) • Trồng cây xanh trên 30.000 hecta mỗi năm cho tới 2025. Là một phần trong cam kết net zero, chính phủ có mục tiêu cắt giảm khí thải 78% vào năm 2035, so với mức khí thải năm 1990. Nhưng một nhóm chuyên gia cố vấn cho chính phủ Anh nói rằng những chính sách hiện nay chỉ thực hiện được 1/5 mục tiêu giảm. Có những vấn đề gì với net zero? Hiện có nhiều tranh cãi về việc các quốc gia làm thế nào để đạt được net zero. Chẳng hạn, quốc gia A có thể ghi nhận mức khí thải thấp nếu họ đóng cửa các ngành công nghiệp dùng nhiều năng lượng như ngành sản xuất thép. Nhưng nếu quốc gia A lại nhập khẩu thép từ quốc gia B, thì thực ra là quốc gia A để Quốc gia B chịu mức khí thải cao, thay vì giảm tổng lượng khí thải nhà kính. Có một số chương trình cho phép các nước giàu bù đắp lượng khí thải bằng cách trả tiền cho các nước nghèo để họ chuyển sang dùng năng lượng sạch hơn. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng đây là cách né tránh hành động tại các quốc gia giàu. Source: https://www.bbc.com/vietnamese/world-58969160

Saturday, October 23, 2021

A Five-Point Plan for Becoming the Best Mentor You Can Be

01-21-21 A 5-point plan for becoming the best mentor you can be The founder of a global STEM mentoring nonprofit says authenticity and transparency are key. Share your own stumbles—and how you overcame them. by Janet T. Phan While I was in high school, I was an ambitious student with a serious vision for my future. The daughter of Vietnamese refugees, I was quickly learning that my parents would not be able to guide me to where I needed to go, whether educationally or financially, to achieve my goals. As my friends’ parents cheered them on at extracurriculars that would help them get into college, I often could not get a ride to mine. I spent my summers working 12-hour shifts at KFC (with a night shift at Hollywood Video) to save for a car to get me where I needed to go, and tuition when the time came. Simply because of the family I was born into, my pathway was littered with roadblocks as I battled between what I needed to achieve my dreams, and what my parents believed to be true–or in many cases, didn’t understand. I met my first mentor in high school, before I had a name for what he was. I was dropping out of a business competition that would have required me to travel across the state, because I just couldn’t get my parents to understand why I had to go. With a phone call, he was able to bring them around. For the first time, I realized that there could be guides along my way. If I was willing to do the hard work, they could open doors, increase access and help me navigate the system I’d be a part of. The series of mentors that I’ve had since–mentors who guided me through college, the start of my career, and my role today as a global technology consultant for a major consulting firm–were so impactful on my life that in 2016, I founded Thriving Elements, a global nonprofit that matches girls in underserved communities with long-term STEM field mentors. Being a mentor is an opportunity to change someone’s life. But in my experience matching dozens of mentor pairs, being mentored myself and mentoring others, I’ve realized that there are a few specific elements that mentors should keep in mind when considering entering into a mentorship. Be authentic Mentees are often intimidated by their mentors at first, and just assume the path has always been smooth or only think about the end result–success–rather than the path to get there. But this is where a mentor has the most value. Great mentors share their thought process on the decisions they’ve made along their career paths. Most importantly, they share their failures, and what they learned from them. Transparency and authenticity can help mentees make these difficult decisions as they face them later in their career. Listen to understand There is a slight power imbalance in a mentor and mentee relationship. If you’re mentoring someone, they may feel too intimidated to share some of their challenges or worry that it will make them seem unqualified. This is why it’s important to get to know your mentee on a personal level. Understand what it is they need help with, and what drives them. But also listen to what they are not telling you. This is also an important moment to remember that mentorship is a two-way street. Be open to learning from your mentee. I recently wrote a book and developed a TEDx talk about mentoring. For both, I asked for feedback from Thriving Elements mentees because often they’d have valuable insights to share. Encourage and empower Some of the most powerful advice I’ve ever received from a mentor was, “The worst thing they can tell you is no. What do you have to lose when you try?” As a mentor, your role isn’t to instruct your mentee, it’s to encourage and empower them to achieve their goals. Teach them to think by posing thoughtful open-ended questions. It’s likely you’ve seen plenty of failure during your career, and you can’t save your mentee from that. In fact, it should be encouraged. Give them the space to fail. If they’re excited about an idea, provide them with guidance, even if you know it might not work. Connect them with your network We’re all increasingly aware of the fact that access and opportunities are not equitable. Coming from a place without family support, both in my finances and in connections that would advance my career, I’ve experienced this personally. I’m also a female in STEM, which creates an additional layer of challenge. But even in the past decade, mentorship has been crucial to developing my career and catapulting me to where I am now. My mentor listened to what I wanted to do to grow and develop, and my mentor took action, ensuring that my name was in the running and that I had access when these opportunities came up. Set expectations The mentee needs to be in the driver’s seat for your mentoring relationship. For a productive mentorship, we need to help those who help themselves. Mentoring isn’t one-sided. For the relationship to be rewarding to you, find a mentee who’s willing to take advantage of access to your knowledge, experience and time. This has become doubly difficult during COVID, when video calls often present another barrier to the informal conversations and relationship building that can more naturally lead to a mentoring relationship. So, open that door. Tell them what you expect of them, and what they can expect from you in return to ensure that they understand what they can ask for. Be transparent and offer to mentor people, because often, they are afraid to ask. Janet T. Phan is a global technology consultant and the founder of Thriving Elements, a global nonprofit that connects girls in underserved communities with STEM mentors. Source: https://www.fastcompany.com/90595519/a-5-point-plan-for-becoming-the-best-mentor-you-can-be

Wednesday, October 20, 2021

Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phổ "MUỐN SỐNG LÂU TRƯỚC HẾT PHẢI SẠCH SẼ TỪ THÂN ĐẾN TÂM!" Đó là lời giản dị nhưng được đúc kết cả cuộc đời của một bậc cao tăng năm nay tròn 100 tuổi - Đức Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN - sống giản dị và khiêm cung ở một ngôi chùa làng ở Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội. Ở tuổi 100, trải qua và là chứng nhân của nhiều giai đoạn lịch sử, có lúc rất khắc nghiệt, ngài vẫn giữ đạo phong của một người xuất gia mang dòng họ của Đức Phật. Sau nhiều lần thuyết phục, ngài đã dành cho Báo Giác Ngộ bài phỏng vấn trực tiếp đặc biệt dưới đây, trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả. * Bạch Hòa thượng, người xưa nói, thất thập cổ lai hy, nhưng ngài năm nay nữa sẽ tròn trăm, được xem là bậc đại thụ không chỉ Phật giáo VN, mà cả Phật giáo thế giới. Trong ngót trăm năm ấy, hẳn ngài đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống tu hành. Xin Hòa thượng cho chúng con hay về tâm nguyện cũng như những chặng đường gian khó mà Hòa thượng đã vượt qua? - Tôi xuất gia từ lúc 5 tuổi, được người cô ruột là Ni trưởng Thích nữ Đàm Cơ đưa về chùa Quán ở Ninh Bình. Năm tôi 17 tuổi, được gửi đến tu học tại chùa Viên Minh (chùa Giáng) làm đệ tử Hòa thượng Thích Quảng Tốn. Thuở ấy toàn vùng này là nơi xa xôi vắng vẻ, lau sậy mọc um tùm, thú dữ rắn rết rất nhiều. Tuy ở nơi hẻo lánh, nhưng chùa Viên Minh là tổ đình của sơn môn Đa Bảo, là một trong 3 sơn môn lớn nhất miền Bắc. Tại đây, năm Nhâm Dần 1902, Tổ Thích Nguyên Uẩn mở đạo tràng Viên Minh pháp hội, quy tụ được hơn 100 Tăng Ni giảng dạy và tu học trong 12 năm. Sau đó, Tổ Nguyên Uẩn về cõi Niết-bàn, thì Tổ Quảng Tốn nối chí. Cả đời tôi luôn kính ngưỡng các vị sư tổ chùa Giáng. Các ngài cả đời tận lực vì đạo, cả đời gắng công truyền bá Phật pháp: giảng kinh, thuyết pháp, viết sách, khắc ván in kinh, lập “Viên Minh pháp hội”, không cầu danh lợi. Tôi được như ngày nay cũng là nhờ nhẫn nại noi tấm gương chư Tổ. Từ khi được học giáo pháp của chư Tổ, tôi luôn ghi lòng tạc dạ “giấy rách phải giữ lấy lề”, kiên trì giữ nền nếp của tổ đình, của Viên Minh pháp hội. Gần như cả cuộc đời tu hành của tôi là kinh qua các cuộc chiến tranh, pháp nạn. Những năm kháng chiến chống Pháp, toàn bộ sơn môn bị giặc Pháp đốt hết. Cứ dăm bữa, nửa tháng chúng lại đến càn quét, đốt phá. Làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ. Nhưng tôi xác định, nếu không bám trụ, kiên trì ở lại, không duy trì thì tan nát hết. Cho dù biết rằng ở lại có thể chết, mà ra đi, như một vài huynh đệ của tôi, thì cũng không thể quay về. Mỗi lần chạy loạn đi đâu thì tôi cũng luôn mang theo bên mình những tài sản tinh thần, lịch sử của chư Tổ. Thà chết thì tôi cũng giữ, vì vẫn tin rằng rồi sẽ có cơ phục hồi. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, mình tôi trở về nhìn cảnh tan nát mà lòng xót xa, nhưng phải xây dựng lại để nối dòng sơn môn Đa Bảo. Những năm đầu, người ta tổ chức cho dân đi các khu kinh tế mới. Dân ở lại cũng toàn người nghèo, ai cũng phải bươn chải để kiếm sống, làm gì có tiền hay lương thực đem đến cúng chùa. Chúng tôi tự cày cấy làm ăn, đồng thời tham gia các công việc xã hội, việc làng nước. Tôi trực tiếp tham gia giảng dạy các lớp bình dân học vụ, rồi hộ đê, cứu đê, chống lũ lụt. Việc gì tốt thì làm. Năm 1969 vỡ đê vùng này, nước ngập chùa, kinh sách ướt hết. Canh cánh nỗi lo mất mát, hư hỏng tài liệu, kinh sách của chư Tổ, nhất là những thư tịch độc bản, tôi chạy đua với thời gian, tìm mọi cách để giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Ngay cả khi tôi đã tám mươi tuổi vẫn còn ra đồng làm lụng tự nuôi thân để ngày đêm miệt mài nghiên cứu kinh Phật theo nếp của Tổ xưa. Trải qua nhiều thăng trầm thế sự, tôi cùng các đệ tử phải bền bỉ xây dựng dần lại chùa qua hàng chục năm mới được như ngày nay. Nhờ chư Phật, chư Tổ gia hộ, nhờ Thầy tin tưởng ủy thác, nhờ ký tính huân tập từ nhiều đời mà tôi tạm hoàn thành công nghiệp dịch các bộ kinh Phật. Ân đức của chư Phật, chư Tổ làm sao báo đền cho hết. * Tự cày cấy nuôi thân, chạy đua với thời gian để dịch, nghiên cứu kinh Phật để lại công nghiệp cho Phật giáo nước nhà, mà ngài đã bách niên vẫn không tỏ ra mỏi mệt. Hòa thượng có bí quyết gì trường thọ để truyền lại cho hậu thế? - Tôi không có bí quyết gì. Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệp thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến nay 99 năm, ở chùa 94 năm, thụ Đại giới được 78 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi. Nhưng đã hỏi, thì tôi cũng khuyên muốn sống lâu trước hết phải sạch sẽ từ thân đến tâm. Bốn mùa, các Tăng trong chùa Giáng đều tự trồng lấy rau ăn mà không phải mua ở bên ngoài. Rau trồng ở đây không bón phân vô cơ, không phun thuốc trừ sâu nên đảm bảo luôn sạch, không có chất độc hại. Hàng ngày phải dưỡng sinh, tập thể dục, luôn vận động thân thể, sinh hoạt điều độ thì có thể hỗ trợ để tăng cường sức khỏe cơ thể. Về tinh thần, cần tu tâm dưỡng tính, tiết chế mọi ham muốn dục vọng, sống trong tinh thần lục hòa thì sẽ tăng được tuổi thọ. Nhưng dù sao, cũng không thể loại trừ được vô thường của sinh lão bệnh tử, vì đó là quy luật của mọi kiếp nhân sinh. * Với người thế tục, để có được cuộc sống thanh bần, an lạc dường như khó khăn hơn... Lời dạy nào của Hòa thượng nhằm xây dựng một đời sống an lạc, “trường thọ”, an lạc thực sự? - Đạo nghĩa Lục hòa vốn là điều căn bản của Phật giáo. Thân hòa cùng ở; miệng hòa không cãi nhau; ý hòa cùng vui vẻ; giới hòa cùng tu; kiến hòa cùng giải - thấy biết kiến thức thì chia sẻ cho nhau hiểu; lợi hòa cùng chia - có của cải, lợi ích thì chia cân nhau không ai tranh tham phần hơn cho mình. Vui với đạo pháp mà quên hết phiền não, xóa bỏ đau khổ cho mình và người khác. Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy. * Bạch Hòa thượng, hiện ngài ở ngôi Pháp chủ của Giáo hội nhưng quanh năm vẫn sống và tu ở ngôi chùa làng... - Suốt đời tôi chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi. Tôi tự thấy mình chưa có công đức gì nhiều đối với Giáo hội, nhưng các vị trong Giáo hội nước ta lại ép, đưa tôi lên ngôi Pháp chủ. Lẽ ra, ngôi vị Pháp chủ chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đầy đủ phúc đức, trí tuệ nắm giữ. Miễn cưỡng ngồi lên ngôi cao, đó không phải là phước mà là cái họa cho chúng tôi. Xin các vị đừng gọi tôi là Pháp chủ mà hãy cứ nhìn tôi như một lão tăng thanh bần sống trong ngôi chùa làng là tôi mãn nguyện. Chùa to cảnh lớn dù sao cũng chỉ là phương tiện, nên không quan trọng trong việc quyết định thành tựu của người tu. Tôi cũng được người ta mời trụ trì một vài ngôi chùa lớn, hoặc những ngôi chùa ở trong nội thành Hà Nội với lời khuyên rằng: Hòa thượng già rồi, nên ở những ngôi chùa trong thành phố, gần các bệnh viện lớn để tiện theo dõi, chăm sóc sức khỏe. Nhưng tôi từ chối hết. Vì tôi có trách nhiệm phải nối dòng sơn môn Đa Bảo, duy trì mạng mạch Phật pháp của Viên Minh pháp hội, nên phải bám trụ chùa Giáng này. * Năm qua, trong Phật giáo có nhiều điều không hay được báo chí khai thác, như hiện tượng một số tu sĩ ăn mặn uống rượu và cho đó là điều bình thường. Đạo Phật quan niệm vấn đề đó là như thế nào, bạch Hòa thượng? “Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo”. - Phật giáo theo hệ phái Nam tông (còn gọi là Tiểu thừa) không ăn chay, nhưng hệ phái Bắc tông (Đại thừa) thì thường ăn chay. Xưa kia Đức Phật và chư Tăng đi khất thực, ai cho gì thì các Ngài và chư Tăng dùng cái đó, không đòi hỏi, phân biệt chay mặn. Trong Phật giáo Đại thừa, đối với những người thụ Bồ-tát giới phải chịu 48 điều kiêng cấm, trong đó có nội dung cấm ăn thịt chúng sinh. Thế nhưng thụ Bồ-tát giới theo truyền thống Tây Tạng, không có giới nào cấm ăn thịt cả. Nói vậy để thấy rằng, vấn đề ăn chay hay không là tùy thuộc ở từng hệ phái, từng sơn môn, chứ nói đến chuyện có bắt buộc ăn chay hay không thì Đức Phật không bắt. Riêng sơn môn chùa Giáng (Viên Minh), tất thảy mọi người đều phải ăn chay trường. Nhà chùa chúng tôi ăn chay là vì quan niệm thịt các loài vật với thịt mình thì cũng là thịt thôi. * Vấn đề là một số báo chí đề cập về cách sống, cách nói chuyện kiểu “chầy bửa” như người trần tục của một số Tăng Ni. Là một bậc lãnh đạo Phật giáo VN, ngài nghĩ gì về việc này? - Tôi đọc báo thấy phê phán một số nhà tu đã phóng dật, sống buông thả theo thế gian chứ không phải tu. Tu là gì? Là sửa chữa những tai hại, sai lầm cho mình và cho người. Việc uống bia rượu, sống xa hoa với người tu hành là không nên. Người xuất gia nếu không dụng công tu tập thì chỉ là người tại gia ở chùa. Kính mong quý vị Tăng Ni nếu thấy mình không có đủ sự tinh tấn tu trì thì nên xả giới hoàn tục, kẻo lâm chung đọa vào ba nẻo ác. Trước đây chưa có Giáo hội, chỉ có các sơn môn, tổ đình, ai theo hệ phái nào thì cứ theo đó mà tu. Từng sơn môn học theo giáo lý của Đức Phật rồi lại truyền dạy cho mọi người theo Kinh, theo Luật, theo Luận. Luật thì nghiêm, luận thì sáng suốt, kinh thì thẳng thắn để đưa người tiến hóa. Từ nhiều năm nay tất cả các sơn môn, các hệ phái Phật giáo nước nhà đã được thống nhất trong một tổ chức Giáo hội Phật giáo VN. Giáo hội đã đoàn kết được Tăng Ni cả nước để cùng thực hiện các Phật sự lớn không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở cả tầm quốc tế. Tuy vậy, việc duy trì luật lệ trong từng sơn môn có phần lơi lỏng, đó là nguyên nhân khiến một bộ phận Tăng Ni không được kiềm thúc vào khuôn khổ, xa rời giới luật. Trong sơn môn chùa Giáng, chúng tôi duy trì luật lệ rất nghiêm, các Tăng không được sống buông thả, xa hoa mà phải luôn tu sửa mình. Tôi cũng luôn dạy các đệ tử không được lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, mà phải tự mình vừa cày cấy làm ăn, vừa truyền bá giáo lý đạo Phật đem lại lợi lạc cho đời. * Năm mới, qua Báo Giác Ngộ, Hòa thượng có lời nhắn nhủ, chúc Tết gì gửi đến Tăng Ni, Phật tử cả nước? - Kính mong các bậc tu hành luôn gắng tâm, dụng sức giữ gìn lấy cơ nghiệp của chư Tổ, giữ gìn lấy hạnh nguyện, Chính pháp của chư Phật. Chúc chư tôn đức Trưởng lão, chư quý vị Tăng Ni, cư sĩ Phật tử và mọi người dân khỏe mạnh trường thọ, thân tâm an lạc, có sức, có tuệ, tinh tiến tu tập, trau dồi giới hạnh, nghiêm trì giới luật, xiển dương Chính pháp, hòa hợp Tăng-già, góp phần xây dựng đất nước hòa bình, an lạc. * Kính cảm ơn Hòa thượng! Chu Minh Khôi phỏng vấn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ Chu Minh Khôi (thực hiện) (Giác Ngộ Xuân 2016) Related Links: https://thuvienhoasen.org/a36716/da-la-su-thi-phai-la-nguoi-khuon-mau https://thuvienhoasen.org/a24738/duc-phap-chu-ghpgvn-dang-tung-vung-chai-giua-tuyet-suong ĐỨC PHÁP CHỦ GHPGVN: DÁNG TÙNG VỮNG CHÃI GIỮA TUYẾT SƯƠNG Chương Phượng
Tam quan chùa Viên Minh, trú xứ của Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ Ảnh: C.M.K Người viết tìm đến tổ đình Giáng (dân gian quen gọi là chùa Ráng, tên chữ Viên Minh tự) vào một ngày cuối năm 2015. Trong quá trình viết báo về đề tài Phật giáo, người viết có cơ duyên được gặp và thỉnh giáo với một số chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội Phật giáo nước nhà, nhưng đây là lần đầu tiên đi thỉnh vấn Đức Pháp chủ, bậc chân tu nếu tính theo âm lịch thì năm nay tròn 100 tuổi. Ngài không dùng điện thoại, nên người viết không biết làm cách nào liên lạc, để bạch xin hẹn trước. Từ Hà Nội xuôi Quốc lộ 1A về phía Nam chừng 35 cây số là đến thị trấn Phú Xuyên. Hỏi đường đến chùa “Ráng”, người dân nói rẽ phải đi qua cây đa Giời ơi chừng 7km là tới. Quả nhiên, trên đường sừng sững cây đa di sản mấy trăm năm tuổi, với muôn trùng rễ thụ chọc thẳng xuống đất. Sở dĩ có tên Giời ơi, là vì xưa kia suốt con đường đất dài heo hút không có nhà cửa, ai đi qua cũng đều bị cướp và chỉ biết kêu than “Giời ơi” dưới gốc đa. Đi đến tận bờ đê sông Hồng, mới thấy chùa Giáng hiện lên một mình giữa cánh đồng lúa rộng mênh mông trơ gốc rạ. Cảm giác ngỡ ngàng thoắt hiện, bởi chưa đến người viết cứ hình dung bậc Hòa thượng ở ngôi cao nhất của Giáo hội thì sẽ trụ trì ngôi chùa hoành tráng, có thể nhìn thấy từ rất xa hàng cây số. Nào ngờ tổ đình Giáng lại giản dị và khiêm nhường đến vậy. Một ngôi cổ tự với mái ngói cong cong xếp chồng lên nhau, trông xa xa như một đóa sen giữa xanh ngắt một vùng bờ bãi. Bước qua cổng chùa, được đi giữa khu vườn rộng miên man những hàng khoai tây thẳng tắp, những luống cải bẹ, rau muống, su hào đang bén lá xanh non... gợi cho người viết hình ảnh đầu tiên về cuộc sống thanh bạch của bậc chân tu. Không gian vắng vẻ đến lạ thường. Trừ Bảo điện, Tổ đường, Bảo tháp là uy nghi nhờ mới được trùng tu, còn lại từ nhà khách, khu Tăng xá, bếp ăn, trai đường, lối đi vẫn chỉ là những mái nhà đơn sơ như cảnh chợ quê Bắc Bộ mấy mươi năm trước. https://thuvienhoasen.org/images/file/LoWIXT8x0wgBAGt1/thich-pho-tue.jpg “Tôi ngẫm thấy, “Tre già thì măng mọc”, nói như vậy cũng chỉ là vu khoát, cần nói thêm rằng: tre già phải được dùng vào việc có ích và măng mọc cũng cần có hàng có lối, cần được chăm sóc và bảo vệ thì mới thẳng mới đẹp mới có ích cho Đạo cho Đời. Theo tôi, nên đa dạng hơn nữa các hình thức giáo dục, đào tạo Tăng Ni, nhất là mô hình các tổ đình truyền thống. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò nhất thống của Quốc gia và Giáo hội. Thống nhất nên trên cơ sở sự đa dạng. Với Phật giáo thì hòa hợp Tăng là quan trọng nhất. Các ràng buộc hành chính, mệnh lệnh ngoài giáo pháp chỉ là nhất thời mà thôi. Đặc biệt nên kiên trì giữ gìn nền nếp các trường An cư kết hạ. Đó là nơi không chỉ học tập mà quan trọng là tu tập và thực hành nếp sống cộng đồng, dân chủ, có kỷ cương, “lục hòa” của Tăng, Ni chúng”. Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ Tìm gặp chư Tăng, được biết Đức Pháp chủ đang tọa thiền trong cốc bát giác phía sau chùa. Hàng ngày, ngài đều tụng kinh Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà nhiều giờ đồng hồ liền không đứng dậy, có hôm ngồi suốt ngày đêm niệm Phật. Mỗi lần như vậy, Tăng chúng ở chùa không dám phiền động đến ngài, khách đến thăm cũng không dám bạch báo. Chờ suốt cả buổi sáng, không thấy Đức Pháp chủ ra khỏi cốc, biết là chưa đủ duyên để được gặp ngài, người viết đành chào chư Tăng để ra về. Đại đức Thích Nguyên Quang, một trong những đệ tử của ngài, khuyên: “Hôm khác cứ đến, nếu có duyên thì sẽ gặp được thôi!”. Đi xa hàng chục cây số trong mưa rét, mà không được gặp Đức Pháp chủ, đành tự nhủ có lẽ chư Phật, chư Tổ thử thách sự kiên nhẫn của mình đây. Vài ngày sau người viết trở lại chùa, lần này may mắn được diện kiến Đức Pháp chủ. Phải hôm trời rét đậm, gió bấc hun hút, Hòa thượng khoác chiếc áo dạ cũ không che hết được chiếc áo nâu sồng giản dị bên trong. Trông vị sư già như một lão nông. Trong dáng khô gầy, khắc khổ của một lão Tăng đã ở tuổi bách niên, nhưng đôi mắt vẫn lộ rõ vẻ tinh anh và nụ cười hiền hậu, thanh thoát, bước đi nhàn nhã khoan thai, một phong thái mà không dễ ai, ngót trăm tuổi còn giữ được. Thỉnh vấn Đức Pháp chủ, ngài trả lời rành rọt, khúc chiết từng câu, thể hiện sự minh mẫn như một người trung niên, càng làm người viết ngỡ ngàng trước trí tuệ lớn lao của một bậc cao tăng thạc đức. Nói câu nào, Đức Pháp chủ cũng cười rất tươi. Từ gương mặt đến giọng nói đều toát lên một vẻ từ bi, hỷ xả. Ngài sinh năm 1917 tại xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Năm 1926 xuất gia tại chùa Quán (Ninh Bình). Năm 1932 thọ giới Sa-di tại trường hạ chùa Đông Cao, tỉnh Nam Định. Năm 1934 bắt đầu tu học tại chùa Viên Minh, tỉnh Hà Tây. Năm 1937 thọ giới Tỳ-kheo do ngài Thích Quảng Tốn làm Hòa thượng đầu đàn. Từ năm 1953 đến 1958 tu học và hoằng pháp tại chùa Kim Đới - Hải Phòng. Từ tháng 10-1958 đến nay trụ trì chùa Viên Minh... Ngài kể chuyện xuất gia từ khi mới 5 tuổi, trên đường tu học, dấu chân của ngài đã trải khắp các tổ đình vùng châu thổ sông Hồng. Trải qua những ngày quê hương bị giặc Pháp chiếm đóng, làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ, ngài vẫn một lòng son sắt với cửa Phật. Người viết càng ngạc nhiên hơn, khi Hòa thượng cho biết ngài chưa từng học qua một trường lớp chính quy nào. Tất thảy vốn kiến thức có được đều nhờ kiên trì tự học. Hẳn ai cũng biết, ngài là vị giáo phẩm nổi tiếng uyên thâm về Phật học và Hán học. Sự nghiệp phiên dịch kinh sách, trước tác của ngài nổi bật với các tác phẩm: Kinh Bách dụ, Phật Tổ tam kinh, Bát-nhã dư âm, Đại từ điển Phật học, Đề cương kinh Pháp hoa, Phật học là tuệ học, biên tậpĐại tạng kinh VN, phiên dịch và hiệu đính Luật Tứ phần… Ngài từng là Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây; từng kinh qua Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học VN tại Hà Nội, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Từ tháng 12-2007 đến nay: đảm trách ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN. Đến nay đã 80 năm ngài an trụ ở chùa Giáng nên được Phật tử mọi miền gọi là Tổ Giáng. Trong mắt người dân vùng này, Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ không chỉ là một vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức hạnh vẹn toàn mà còn là một nông dân thực thụ với đức tính hay lam hay làm, cần cù và giản dị. Bởi vì suốt cuộc đời, ngoài giờ hành lễ hay đi hoằng pháp, Hòa thượng luôn cùng môn đệ xắn tay cày cấy nuôi thân, đến 80 tuổi mới thôi. Nay ở tuổi bách niên, ngài không còn ra đồng trồng lúa được nữa, nhưng hàng ngày vẫn làm vườn, dọn dẹp trong chùa.
“Tôi ngẫm thấy, “Tre già thì măng mọc”, nói như vậy cũng chỉ là vu khoát, cần nói thêm rằng: tre già phải được dùng vào việc có ích và măng mọc cũng cần có hàng có lối, cần được chăm sóc và bảo vệ thì mới thẳng mới đẹp mới có ích cho Đạo cho Đời. Theo tôi, nên đa dạng hơn nữa các hình thức giáo dục, đào tạo Tăng Ni, nhất là mô hình các tổ đình truyền thống. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò nhất thống của Quốc gia và Giáo hội. Thống nhất nên trên cơ sở sự đa dạng. Với Phật giáo thì hòa hợp Tăng là quan trọng nhất. Các ràng buộc hành chính, mệnh lệnh ngoài giáo pháp chỉ là nhất thời mà thôi. Đặc biệt nên kiên trì giữ gìn nền nếp các trường An cư kết hạ. Đó là nơi không chỉ học tập mà quan trọng là tu tập và thực hành nếp sống cộng đồng, dân chủ, có kỷ cương, “lục hòa” của Tăng, Ni chúng”. Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ Từ biệt Trưởng lão Hòa thượng, người viết nhìn theo dáng ngài bước đi khoan thai trên nền gạch đỏ, trong tấm khoác giản dị, giữa trời gió bấc. Gió lạnh đến thấu xương, khiến những tán cây cũng run lên bần bật, mà dáng của cụ vững chãi đến lạ lùng, như cây tùng cây bách thường trụ giữa tuyết sương mưa gió. Chợt nghĩ, không biết trên thế giới này có vị Pháp chủ nào lại giản dị mà uyên bác đến thế không. Điều đọng lại trong lòng mỗi người đến đây là sự cảm phục và tôn kính sâu sắc đối với Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ - Đệ tam Pháp chủ GHPGVN, người 100 tuổi đời, vẫn ngày đêm mang giáo lý nhà Phật, đức hạnh cao dày của bậc chân tu giáo hóa chúng sinh. Chương Phượng (Giác Ngộ)

How Science Has Been Corrupted

The pandemic has revealed a darkly authoritarian side to expertise Increasingly, science is pressed into duty as authority. by Matthew Crawford Matthew B Crawford has degrees in physics and political philosophy. He is a senior fellow at the University of Virginia's Institute for Advanced Studies in Culture. May 3, 2021 When I was small, my father would conduct experiments around the house. When you blow across the top of a wine bottle, how many modes of vibration are there? How do you get the higher notes? Another time, the matter under investigation might be the “angle of repose” of a pile of sand, as in an hour-glass. Does it depend on the particle size? On their shape? Do these factors determine the rate at which an hour-glass empties? My favorite was the question of what technique will empty a jug of water fastest. Should you simply turn it upside down and let the air rush in (as it must, to replace the water) in that halting, glug-glug-glug fashion, or hold it at a gentler angle so the pour is unbroken? Answer: turn the jug upside down and swirl it vigorously to set up a whirlpool effect. This creates a hollow space at the centre of the flow, where air is free to enter. The jug will empty very quickly. My father became famous for these “kitchen physics” experiments after he included assignments based on them in a textbook he wrote, published in 1968 and beloved by generations of physics students: Waves (Berkeley Physics Course, Vol. 3). My sister and I, aged two and five, are thanked in the acknowledgments for having surrendered our Slinkies to the cause. He pursued such investigations, not simply as a pedagogical exercise, but to satisfy his own curiosity. And he made time for this even while working at the frontier of particle physics, in the lab of Louis Alvarez at Lawrence Berkeley Laboratory. This was fairly early on in the transition of the practice of science into “big science”. Alvarez won the Nobel Prize in 1968 for his invention and use of the bubble chamber, an instrument for detecting particle decays. It was a device that would comfortably fit on a table top. Today you can build one yourself, if you like. But over the next few decades particle accelerators became enormous installations (CERN, SLAC) requiring the kind of real estate only governments and major institutions, indeed consortiums of institutions, can secure. Scientific papers came to have, not a handful of authors, but hundreds. Scientists became scientist-bureaucrats: savvy institutional players adept at getting government grants, managing sprawling workforces, and building research empires. Inevitably, such an environment selected for certain human types, the kind who would find such a life appealing. A healthy dose of careerism and political talent was required. Such qualities are orthogonal, let us say, to the underlying truth-motive of science. You can well imagine the appeal of getting back to basics for someone who was drawn to a scientific career when the prospect had a more intimate scale to it. Kitchen physics is about the pure intellectual refreshment of wondering about something that you observe in the world with your own unaided powers, and then investigating it. This is the basic image we have of what science is, immortalised in the anecdote of Galileo going up into the leaning tower of Pisa and dropping various objects to see how fast they fall. Science as authority In 1633, Galileo was brought before the Inquisition for his demonstration that the earth is not fixed but revolves around the sun. This was a problem, obviously, because the ecclesiastical authorities believed their legitimacy rested on a claim to have an adequate grasp of reality, as indeed it did. Galileo had no interest in being a martyr, and recanted to save his skin. But in the lore of Enlightenment, he is said to have muttered under his breath, “but it does move!” This anecdote has a prominent place in the story we tell about what it means to be modern. On one side, science with its devotion to truth. On the other side, authority, whether ecclesiastical or political. In this tale, “science” stands for a freedom of the mind that is inherently at odds with the idea of authority. The pandemic has brought into relief a dissonance between our idealised image of science, on the one hand, and the work “science” is called upon to do in our society, on the other. I think the dissonance can be traced to this mismatch between science as an activity of the solitary mind, and the institutional reality of it. Big science is fundamentally social in its practice, and with this comes certain entailments. As a practical matter, “politicised science” is the only kind there is (or rather, the only kind you are likely to hear about). But it is precisely the apolitical image of science, as disinterested arbiter of reality, that makes it such a powerful instrument of politics. This contradiction is now out in the open. The “anti-science” tendencies of populism are in significant measure a response to the gap that has opened up between the practice of science and the ideal that underwrites its authority. As a way of generating knowledge, it is the pride of science to be falsifiable (unlike religion). Yet what sort of authority would it be that insists its own grasp of reality is merely provisional? Presumably, the whole point of authority is to explain reality and provide certainty in an uncertain world, for the sake of social coordination, even at the price of simplification. To serve the role assigned it, science must become something more like religion. The chorus of complaints about a declining “faith in science” states the problem almost too frankly. The most reprobate among us are climate sceptics, unless those be the Covid deniers, who are charged with not obeying the science. If all this has a medieval sound, it ought to give us pause. We live in a mixed regime, an unstable hybrid of democratic and technocratic forms of authority. Science and popular opinion must be made to speak with one voice as far as possible, or there is conflict. According to the official story, we try to harmonise scientific knowledge and opinion through education. But in reality, science is hard, and there is a lot of it. We have to take it mostly on faith. That goes for most journalists and professors, as well as plumbers. The work of reconciling science and public opinion is carried out, not through education, but through a kind of distributed demagogy, or Scientism. We are learning that this is not a stable solution to the perennial problem of authority that every society must solve. The phrase “follow the science” has a false ring to it. That is because science doesn’t lead anywhere. It can illuminate various courses of action, by quantifying the risks and specifying the tradeoffs. But it can’t make the necessary choices for us. By pretending otherwise, decision-makers can avoid taking responsibility for the choices they make on our behalf. Increasingly, science is pressed into duty as authority. It is invoked to legitimise the transfer of sovereignty from democratic to technocratic bodies, and as a device for insulating such moves from the realm of political contest. Over the past year, a fearful public has acquiesced to an extraordinary extension of expert jurisdiction over every domain of life. A pattern of “government by emergency” has become prominent, in which resistance to such incursions are characterised as “anti-science”. But the question of political legitimacy hanging over rule by experts is not likely to go away. If anything, it will be more fiercely fought in coming years as leaders of governing bodies invoke a climate emergency that is said to require a wholesale transformation of society. We need to know how we arrived here. In The Revolt of the Public, former intelligence analyst Martin Gurri traces the roots of a “politics of negation” that has engulfed Western societies, tied to a wholesale collapse of authority across all domains ­— politics, journalism, finance, religion, science. He blames it on the internet. Authority has always been located in hierarchical structures of expertise, guarded by accreditation and long apprenticeship, whose members develop a “reflexive loathing of the amateur trespasser”. For authority to be really authoritative, it must claim an epistemic monopoly of some kind, whether of priestly or scientific knowledge. In the 20th century, especially after the spectacular successes of the Manhattan Project and the Apollo moon landing, there developed a spiral wherein the public came to expect miracles of technical expertise (flying cars and moon colonies were thought to be imminent). Reciprocally, stoking expectations of social utility is normalised in the processes of grant-seeking and institutional competition that are now inseparable from scientific practice. The system was sustainable, if uneasily so, as long as inevitable failures could be kept offstage. This required robust gatekeeping, such that the assessment of institutional performance was an intra-elite affair (the blue-ribbon commission; peer review), allowing for the development of “informal pacts of mutual protection”, as Gurri puts it. The internet, and the social media which disseminate instances of failure with relish, have made such gatekeeping impossible. That is the core of the very parsimonious and illuminating argument by which Gurri accounts for the revolt of the public. In recent years, a replication crisis in science has swept aside a disturbing number of the findings once thought robust in many fields. This has included findings that lie at the foundation of whole research programs and scientific empires, now crumbled. The reasons for these failures are fascinating, and provide a glimpse into the human element of scientific practice. Henry H. Bauer, chemistry professor and former dean of arts and sciences at Virginia Tech, published a paper in 2004 in which he undertook to describe how science is actually conducted in the 21st century: it is, he says, fundamentally corporate (in the sense of being collective). “It remains to be appreciated that 21st-century science is a different kind of thing than the ‘modern science’ of the 17th through 20th centuries….” Now, science is primarily organised around “knowledge monopolies” that exclude dissident views. They do so not as a matter of piecemeal failures of open-mindedness by individuals jealous of their turf, but systemically. The all-important process of peer review depends on disinterestedness, as well as competence. “Since about the middle of the 20th century, however, the costs of research and the need for teams of cooperating specialists have made it increasingly difficult to find reviewers who are both directly knowledgeable and also disinterested; truly informed people are effectively either colleagues or competitors.” Bauer writes that “journeymen peer-reviewers tend to stifle rather than encourage creativity and genuine innovation. Centralized funding and centralized decision-making make science more bureaucratic and less an activity of independent, self-motivated truth-seekers.” In universities, “the measure of scientific achievement becomes the amount of ‘research support’ brought in, not the production of useful knowledge”. (University administrations skim a standard 50% off the top of any grant to cover the “indirect costs” of supporting the research.) Given the resources required to conduct big science, it needs to serve some institutional master, whether that be commercial or governmental. In the last 12 months we have seen the pharmaceutical industry and its underlying capacity for scientific accomplishment at its best. The development of mRNA vaccines represents a breakthrough of real consequence. This has occurred in commercial laboratories that were temporarily relieved of the need to impress financial markets or stoke consumer demand by large infusions of government support. This ought to give pause to the political reflex to demonise pharmaceutical companies that is prevalent on both the Left and the Right. But it cannot be assumed that “the bottom line” exerts a disciplining function on scientific research that automatically aligns it with the truth motive. Notoriously, pharmaceutical companies have, on a significant scale, paid physicians to praise, recommend and prescribe their products, and recruited researchers to put their names to articles ghost-written by the firms which are then placed in scientific and professional journals. Worse, the clinical trials whose results are relied upon by federal agencies in deciding whether to approve drugs as safe and effective are generally conducted or commissioned by the pharmaceutical companies themselves. The bigness of big science — both the corporate form of the activity, and its need for large resources generated otherwise than by science itself — places science squarely in the world of extra-scientific concerns, then. Including those concerns taken up by political lobbies. If the concern has a high profile, any dissent from the official consensus may be hazardous to an investigator’s career. Public opinion polls generally indicate that what “everybody knows” about some scientific matter, and its bearing on public interests, will be identical to the well-institutionalized view. This is unsurprising, given the role the media plays in creating consensus. Journalists, rarely competent to assess scientific statements critically, cooperate in propagating the pronouncements of self-protecting “research cartels” as science. Bauer’s concept of a research cartel came into public awareness in an episode that occurred five years after his article appeared. In 2009, someone hacked the emails of the Climate Research Unit at the University of East Anglia in Britain and released them, prompting the “climategate” scandal in which the scientists who sat atop the climate bureaucracy were revealed to be stonewalling against requests for their data from outsiders. This was at a time when many fields, in response to their own replication crises, were adopting data sharing as a norm in their research communities, as well as other practices such as reporting null findings and the pre-registration of hypotheses in shared forums. The climate research cartel staked its authority on the peer review process of journals deemed legitimate, which meddling challengers had not undergone. But, as Gurri notes in his treatment of climategate, “since the group largely controlled peer review for their field, and a consuming subject of the emails was how to keep dissenting voices out of the journals and the media, the claim rested on a circular logic”. One can be fully convinced of the reality and dire consequences of climate change while also permitting oneself some curiosity about the political pressures that bear on the science, I hope. Try to imagine the larger setting when the IPPC convenes. Powerful organisations are staffed up, with resolutions prepared, communications strategies in place, corporate “global partners” secured, interagency task forces standing by and diplomatic channels open, waiting to receive the good word from an empaneled group of scientists working in committee. This is not a setting conducive to reservations, qualifications, or second thoughts. The function of the body is to produce a product: political legitimacy. The third leg: moralism The climategate scandal delivered a blow to the IPPC, and therefore to the networked centres of power for which it serves as science-settler. This perhaps led to a heightened receptivity in those centres for the arrival of a figure such as Greta Thunberg who escalates the moral urgency of the cause (“How dare you!), giving it an impressive human face that can galvanise mass energy. She is notable both for being knowledgeable and for being a child, even younger and more fragile-looking than her age, and therefore an ideal victim-sage. There appears to be a pattern, not limited to climate science-politics, in which the mass energy galvanised by celebrities (who always speak with certainty) strengthens the hand of activists to organise campaigns in which any research institution that fails to discipline a dissident investigator is said to be serving as a channel of “disinformation”. The institution is placed under a kind of moral receivership, to be lifted when the heads of the institution denounce the offending investigator and distance themselves from his or her findings. They then seek to repair the damage by affirming the ends of the activists in terms that out-do the affirmations of rival institutions. As this iterates across different areas of establishment thinking, especially those that touch on ideological taboos, it follows a logic of escalation that restricts the types of inquiry that are acceptable for research supported by institutions, and shifts them in the direction dictated by political lobbies. Needless to say, all this takes place far from the field of scientific argument, but the drama is presented as one of restoring scientific integrity. In the internet era of relatively open information flows, a cartel of expertise can be maintained only if it is part of a larger body of organised opinion and interests that, together, are able to run a sort of moral-epistemic protection racket. Reciprocally, political lobbies depend on scientific bodies that are willing to play their part. This could be viewed as part of a larger shift within institutions from a culture of persuasion to one in which coercive moral decrees emanate from somewhere above, hard to locate precisely, but conveyed in the ethical style of HR. Weakened by the uncontrolled dissemination of information and attendant fracturing of authority, the institutions that ratify particular pictures of what is going on in the world must not merely assert a monopoly of knowledge, but place a moratorium on the asking of questions and noticing of patterns. Research cartels mobilise the denunciatory energies of political activists to run interference and, reciprocally, the priorities of activist NGOs and foundations meter the flow of funding and political support to research bodies, in a circle of mutual support. One of the most striking features of the present, for anyone alert to politics, is that we are increasingly governed through the device of panics that give every appearance of being contrived to generate acquiescence in a public that has grown skeptical of institutions built on claims of expertise. And this is happening across many domains. Policy challenges from outsiders presented through fact and argument, offering some picture of what is going on in the world that is rival to the prevailing one, are not answered in kind, but are met rather with denunciation. In this way, epistemic threats to institutional authority are resolved into moral conflicts between good people and bad people. The ramped-up moral content of pronouncements that are ostensibly expert-technical needs to be explained. I suggested there are two rival sources of political legitimacy, science and popular opinion, that are imperfectly reconciled through a kind of distributed demagogy, which we may call scientism. This demagogy is distributed in the sense that interlocked centers of power rely on it to mutually prop one another up. But as this arrangement has begun to totter, with popular opinion coming untethered from expert authority and newly assertive against it, a third leg has been added to the structure in an effort to stabilise it: the moral splendor of the Victim. To stand with the Victim, as every major institution now appears to do, is to arrest criticism. Such is the hope, at any rate. In the unforgettable Summer of 2020, the moral energy of anti-racism was harnessed to the scientific authority of public health, and vice versa. Thus “white supremacy” was a public health emergency — one urgent enough to dictate the suspension of social distancing mandates for the sake of protests. So how did the description of America as white supremacist get converted into a scientific-sounding claim? Michael Lind has argued that covid laid bare a class war, not between labor and capital, but between two groups that could both be called “elites”: on one side, small business owners who opposed lockdowns and, on the other, professionals who enjoyed greater job security, were able to work from home, and typically took a maximalist position on hygiene politics. We can add that, being in the “knowledge economy,” professionals naturally show more deference to experts, since the basic currency of the knowledge economy is epistemic prestige. This divide got mapped onto the pre-existing schism that had organised itself around President Trump, with the population sorted into good people and bad people. For professionals, not just the status of one’s soul, but one’s standing and viability in the institutional economy, depended on getting conspicuously on the right side of that divide. According to the Manichaean binary established in 2016, the fundamental question mark over one’s head is that of the strength and sincerity of one’s anti-racism. For white people who worked in technical bodies connected to public health, the confluence of the George Floyd protests and the pandemic seemed to have presented an opportunity to convert their moral precarity on the issue of race into its opposite: moral authority. Over 1,200 health experts, speaking as health experts, signed an open letter encouraging mass protests as necessary to address the “pervasive lethal force of white supremacy”. This pervasive force is something they are specially qualified to detect by their scientific knowledge. Editorials in journals such as The Lancet, The New England Journal of Medicine, Scientific American and even Nature now speak the language of Critical Race Theory, invoking the invisible miasma of “whiteness” as explanatory device, controlling variable and justification for whatever pandemic policy prescription it seems good to align themselves with. The science is remarkably clear. It has also been bent to expansive purposes. In February 2021, the medical journal The Lancet convened a Commission on Public Policy and Health in the Trump Era to deplore the president’s politicisation of science – while urging “science-led proposals” that would address public health through reparations for descendants of slaves and other victims of historical oppression, the enhancement of affirmative action, and the adoption of the Green New Deal, among other measures. One can certainly make a case for such policies sincerely, freely, and with due consideration. Many people have. But perhaps it is also the case that the moral sorting and resulting insecurity among technocratic professionals has made them quick to defer to activists and sign on to grander visions of a transformed society. The spectacular success of “public health” in generating fearful acquiescence in the population during the pandemic has created a rush to take every technocratic-progressive project that would have poor chances if pursued democratically, and cast it as a response to some existential threat. In the first week of the Biden administration, the Senate majority leader urged the president to declare a “climate emergency” and assume powers that would authorise him to sidestep Congress and rule by executive fiat. Ominously, we are being prepared for “climate lockdowns”. The wisdom of the East Western nations have long had contingency plans for dealing with pandemics, in which quarantine measures were delimited by liberal principles – respecting individual autonomy and avoiding coercion as much as possible. Thus, it was the already-infected and the especially vulnerable who should be isolated, as opposed to locking healthy people in their homes. China, on the other hand, is an authoritarian regime that solves collective problems through rigorous control of its population and pervasive surveillance. Accordingly, when the COVID pandemic began in earnest, China locked down all activities in Wuhan and other affected areas. In the West, it was simply assumed that such a course of action was not an available option. As UK epidemiologist Neil Ferguson said to the Times last December: “It’s a communist one-party state, we said. We couldn’t get away with [lockdowns] in Europe, we thought… and then Italy did it. And we realised we could.” He added that “These days, lockdown feels inevitable.” Thus, what had seemed impossible due to the bedrock principles of Western society now feels not merely possible but inevitable. And this complete inversion happened over the course of a few months. Acceptance of such a bargain would seem to depend entirely on the gravity of the threat. There is surely some point of hazard beyond which liberal principles become an unaffordable luxury. Covid is indeed a very serious illness, with an infection fatality rate about ten times higher than that of the flu: roughly one percent of all those who are infected die. Also, however, unlike the flu this mortality rate is so skewed by age and other risk factors, varying by more than a thousand-fold from the very young to the very old, that the aggregate figure of one percent can be misleading. As of November 2020, the average age of those killed by Covid in Britain was 82.4 years old. In July of 2020, 29 % of British citizens believed that “6-10 percent or higher” of the population had already been killed by Covid. About 50% of those polled had a more realistic estimate of 1%. The actual figure was about one tenth of one percent. So the public’s perception of the risk of dying of Covid was inflated by one to two orders of magnitude. This is highly significant. Public opinion matters in the West far more than in China. Only if people are sufficiently scared will they give up basic liberties for the sake of security – this is the basic formula of Hobbes’s Leviathan. Stoking fear has long been an essential element of the business model of mass media, and this appears to be on a trajectory of integration with state functions in the West, in a tightening symbiosis. While the Chinese government resorts to external coercion, in the West coercion must come from inside; from a mental state in the individual. The state is nominally in the hands of people elected to serve as representatives of the people, so it cannot be an object of fear. Something else must be the source of fear, so the state may play the role of saving us. But playing this role requires that state power be directed by experts. Early in 2020, public opinion accepted the necessity of a short-term suspension of basic liberties on the supposition that, once the emergency had passed, we could go back to being not-China. But this is to assume a robustness of liberal political culture that may not be warranted. Lord Sumption, a jurist and retired member of the UK’s Supreme Court, makes a case for regarding lockdowns in the West as the crossing of a line that is not likely to get uncrossed. In an interview with Freddie Sayers at UnHerd, he points out that, by law, the government has broad powers to act under emergency. “There are many things governments can do, which it is generally accepted they should not do. And one of them, until last March, was to lock up healthy people in their homes.” He makes the Burkean observation that our status as a free society rests, not on laws, but on convention, a “collective instinct” about what we ought to do, rooted in habits of thinking and feeling that develop slowly over decades and centuries. These are fragile. It is far easier to destroy a convention than to establish one. This suggests going back to being not-China may be quite difficult. As Lord Sumption says, “When you depend for your basic freedoms on convention, rather than law, once the convention is broken, the spell is broken. Once you get to a position where it is unthinkable to lock people up, nationally, except when somebody thinks it’s a good idea, then frankly there is no longer any barrier at all. We have crossed that threshold. And governments do not forget these things. I think this is a model that will come to be accepted, if we are not very careful, as a way of dealing with all manner of collective problems.” In the US as in the UK, the government has immense powers. “The only thing that protects us from the despotic use of that power is a convention that we have decided to discard.” Clearly, an admiration for Chinese-style governance has been blossoming in what we call centrist opinion, in large part as a response to the populist upsets of the Trump and Brexit era. It is also clear that “Science” (as opposed to actual science) is playing an important role in this. Like other forms of demagogy, scientism presents stylised facts and a curated picture of reality. In doing so, it may generate fears strong enough to render democratic principles moot. The pandemic is now in retreat and the vaccines are available to all who want them in most parts of the United States. But many people refuse to give up their masks, as though they had joined some new religious order. The wide deployment of fear as an instrument of state propaganda has had a disorienting effect, such that our perception of risk has come detached from reality. We accept all manner of risks in the course of life, without thinking about it. To pick one out and make it an object of intense focus is to adopt a distorted outlook that has real costs, paid somewhere beyond the rim of one’s tunnel vision. To see our away out of this — to place risks in their proper context — requires an affirmation of life, refocusing on all those worthwhile activities that elevate existence beyond the merely vegetative. Losing face Perhaps the pandemic has merely accelerated, and given official warrant to, our long slide toward atomisation. By the nakedness of our faces we encounter one another as individuals, and in doing so we experience fleeting moments of grace and trust. To hide our faces behind masks is to withdraw this invitation. This has to be politically significant. Perhaps it is through such microscopic moments that we become aware of ourselves as a people, bound up in a shared fate. That’s what solidarity is. Solidarity, in turn, is the best bulwark against despotism, as Hannah Arendt noted in On The Origins of Totalitarianism. Withdrawal from such encounter now has the stamp of good citizenship, i.e., good hygiene. But what sort of regime are we to be citizens of? “Following the science” to minimise certain risks while ignoring others absolves us of exercising our own judgment, anchored in some sense of what makes life worthwhile. It also relieves us of the existential challenge of throwing ourselves into an uncertain world with hope and confidence. A society incapable of affirming life and accepting death will be populated by the walking dead, adherents of a cult of the demi-life who clamour for ever more guidance from experts. It has been said, a people gets the government it deserves.