He who sees the Dhamma sees the Paṭiccasamuppāda.
— Majjhima Nikaya 1.190(translated by David Williams)
Duyên khởi là đạo lý quan trọng
trong toàn bộ giáo pháp của Thế Tôn. Có thể nói, chính duyên khởi đã tạo ra sự
đặc thù của Chánh pháp, khác biệt với mọi luận lý sáng thế, tạo vật của các hệ tư
tưởng đương thời.
Duyên khởi có nghĩa là mọi sự vật hiện tượng đều do các nhân duyên tương hội, tương tán mà hiện khởi hay dị diệt. Duyên khởi chính là nền tảng của vô thường và vô ngã.
Duyên khởi có nghĩa là mọi sự vật hiện tượng đều do các nhân duyên tương hội, tương tán mà hiện khởi hay dị diệt. Duyên khởi chính là nền tảng của vô thường và vô ngã.
Duyên khởi có tầm quan trọng là như
thế, do Thế Tôn tuyên thuyết mà không phải do Ngài tạo ra, cũng không phải do
bất cứ ai (kể cả thần linh) làm ra. Duyên khởi là đạo lý tự nhiên của vũ trụ, thế
giới, nhân sinh; là chân lý khách quan, sự sự vật vật vốn dĩ như vậy (pháp nhĩ như
thị). Có điều, trước nay không ai phát hiện ra cũng như thấy được điều đó, chỉ
có tuệ giác của Đức Phật, bậc đã chứng ngộ chân lý mới thấy rõ sự thật này. Vạn
sự vạn vật do nhân duyên mà sinh nên gọi duyên sinh, do nhân duyên mà hiện khởi
nên gọi là duyên khởi.
“Một thời, Phật ở tại xóm Điều ngưu,
Câu-lưu-sưu. Bấy giờ có Tỳ-kheo đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật, rồi ngồi
qua một bên, bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, pháp duyên khởi mà
Ngài nói, là do Thế Tôn làm ra hay do người khác làm ra?
Phật bảo Tỳ-kheo:
- Pháp duyên khởi chẳng phải do Ta
tạo ra, cũng chẳng phải do người khác tạo ra. Nhưng dù Như Lai có xuất hiện hay
chưa xuất hiện ở thế gian thì pháp giới này vẫn thường trụ. Như Lai tự giác ngộ
pháp này, thành Đẳng chánh giác, vì tất cả chúng sanh mà phân biệt, diễn nói,
chỉ dạy hiển bày; đó là: Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia
khởi. Tức là do duyên vô minh nên có hành,… cho đến việc tụ tập thuần một khối
khổ lớn. Do vô minh diệt nên hành cũng diệt,… cho đến việc thuần một khối khổ
lớn tụ tập cũng bị diệt.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
(Kinh
Tạp A-hàm, kinh số 299)
Ai cũng biết bài kệ duyên khởi nổi
tiếng: “Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sinh
vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt”. Ở pháp thoại này Thế Tôn nói:
“Cái này khởi nên cái kia khởi”. Và chúng ta có thể dễ dàng suy ra theo chiều
ngược lại: Cái này không khởi nên cái kia không khởi. Như vậy, các pháp nương
tựa vào nhau, tương tác lẫn nhau mà sinh trụ dị diệt vô cùng vô tận; không có
thủ thể, không do ai sáng tạo hay điều động gì cả.
Duyên sinh-khởi trong tiến trình luân
hồi vô tận của chúng sinh chính là 12 nhân duyên. Vô minh duyên hành, hành
duyên thức cho đến… sinh tử, ưu bi khổ não. Chỉ cần một mắt xích trong 12 nhân
duyên bị gãy thì tiến trình sinh tử bị phá vỡ, “khối khổ lớn tụ tập cũng bị
diệt”. Bậc thượng trí thì đoạn trừ vô minh, khiến minh sinh khởi, thành tựu giải
thoát tối hậu. Hàng trung căn thì cố gắng miệt mài đoạn trừ ái. Chánh niệm khi
xúc (căn tiếp xúc với trần), tỉnh giác với thọ (cảm giác dễ chịu, khó chịu và trung
tính) để tham ái không sinh. Tham ái không sinh thì khổ đau không khởi, khổ đau
được đoạn tận.
Thế Tôn từng dạy rằng, ai thấy duyên
khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Như Lai. Thấy được duyên khởi là biểu
hiện đặc thù của tuệ giác. Thể nhập được không tính, vô ngã tính của vạn pháp
là đỉnh cao của tuệ giác, vượt thoát sinh tử, chứng đắc Niết-bàn.
Source:
https://thuvienhoasen.org/a30403/do-duyen-ma-hien-khoi
Conditionality
The Pratityasamutpada
teachings asserts neither direct Newtonian-like causality nor a single
causality. Rather, it asserts an indirect conditioned causality and a plural
causality. The "causal link" propositions in Buddhism is very
different from the idea of causality that developed in Europe. Instead, the
concept of causality in Buddhism is referring to conditions created by a
plurality of causes that necessarily co-originate phenomena within and across
lifetimes, such as karma in one life creating conditions that lead to rebirth
in one of realms of existence for another lifetime. The Pratītyasamutpāda
principle asserts that the dependent origination is necessary and sufficient
condition in both directions. This is expressed in Majjhima
Nikaya as "When this is, that is; This arising, that
arises; When this is not, that is not; This ceasing, that ceases."
Ontological
principle
According to Peter Harvey, Pratityasamutpada
is an ontological principle;
that is, a theory to explain the nature and relations of being, becoming,
existence and ultimate reality. Buddhism asserts that there is nothing
independent, except the state of nirvana.
All physical and mental states depend on and arise from other
pre-existing states, and in turn from them arise other dependent states while
they cease. The 'dependent arisings' have a causal conditioning, and thus Pratityasamutpada
is the Buddhist belief that causality is the basis of ontology, not a creator
God nor the ontological Vedic concept called universal Self (Brahman) nor any
other 'transcendent creative principle'
The Pratītyasamutpāda ontological
principle in Buddhism is applied not only to explain the nature and existence
of matter and empirically observed phenomenon, but also to the nature and
existence of life. In abstract form, according to Peter Harvey, "the
doctrine states: 'That being, this comes to be; from the arising of that, this
arises; that being absent, this is not; from the cessation of that, this
ceases'.” There is no 'first cause' from which all beings arose.
Workings
of the mind
Against Harvey's ontological interpretation,
Eviatar Shulman argues that
dependent-origination addresses the
workings of the mind alone. Dependent-origination should be understood to be no
more than an inquiry into the nature of the self (or better, the lack of a
self). Viewing pratitya-samutpada as a description of the nature of reality in
general means investing the words of the earlier teachings with meanings
derived from later Buddhist discourse.”
Shulman grants that there are some
ontological implications that may be gleaned from dependent origination, but
that at its core it is concerned with "identifying the different processes
of mental conditioning and describing their relations."
Noa Ronkin states that while Buddha
suspends all views regarding certain metaphysical questions, he is not an
anti-metaphysician: nothing in the texts suggests that metaphysical questions
are completely meaningless, instead Buddha taught that sentient experience is
dependentlyy originated and that whatever is dependently originated is
conditioned, impermanent, subject to change, and lacking independent selfhood.
Epistemological
principle
According to Stephen Laumakis,
pratītyasamutpāda is also an epistemological
principle; that is, a theory about how we gain correct and incorrect knowledge
about being, becoming, existence and reality.The 'dependent origination'
doctrine, states Peter Harvey, "highlights the Buddhist notion that all
apparently substantial entities within the world are in fact wrongly perceived.
We live under the illusion that terms such as 'I', self, mountain, tree, etc.
denote permanent and stable things. The doctrine teaches this is not so."There
is nothing permanent (anicca), nothing
substantial, no unique individual self in the nature of becoming and existence (anatta), because
everything is a result of "dependent origination".There are no
independent objects and independent subjects, according to the
Pratītyasamutpāda doctrine, there is fundamental emptiness in all phenomena and
experiences.
…. Birth and Death refer not to
physical birth and death, but to the birth and death of our self-concept, the
"emergence of the ego"
Bhikkhu Buddhadasa, Paticcasamuppada: Practical Dependent Origination.
Source: