Sau Anderson một
trận triều dâng vĩ đại
đã đến với truyện ngắn Mỹ. Hai trong số những tiểu thuyết gia chính
của thế kỷ 20, Theodore
Dreiser và Sinclair Lewis, lại không bao giờ thành công với truyện ngắn,
nhưng chúng ta hãy xét đến các nhà văn nổi tiếng về thể loại này
như Fitzgerald, Hemingway, Faulkner, Katherine Anne Porter, Steele, Lardner, và
thêm vào đó là Edith Wharton, Willa Cather và Ellen Glasgow, những người vẫn
đều đặn sáng tác, dù tài năng chưa rực sáng bằng. Chỉ riêng thể loại truyện ngắn những
năm 1920 cũng đã đáng kể
rồi. Hỗ trợ cho những nhà văn nổi
tiếng, vây quanh họ như những miếng gỗ bào dùng để đệm chặt một cái
hộp, là một đội ngũ nhà văn tuy không nổi tiếng bằng nhưng rất đông đảo
và đầy tài năng khiến chúng ta
phải kinh ngạc, mà từ tác phẩm của họ và để cạnh tranh với
họ, những cây bút xuất sắc đã nở rộ. Bạn không thể mài riù trên một bánh xe
làm bằng phó mát; bạn cũng không thể đào tạo được những nhà văn vĩ
đại nếu không có áp lực của một dàn tài năng vững vàng cạnh tranh
với nhau. Chính từ những nhà văn
đứng hàng thứ hai cũng như từ những nhà văn nổi tiếng ấy mà truyện
ngắn có được chất lượng tốt như thế.
Chắc chắn
những nhà văn lớn đã làm họ trở nên nổi tiếng. Từ những truyện đầu tay của mình dù khi
gửi đăng bị một số chủ bút từ chối vì chúng chỉ là ký sự
ngắn, Hemingway đã để ấn tượng sâu
đậm nơi những người biết đến ông như một người rõ ràng là rất đặc
biệt. Những tác phẩm đầu tay của
ông, Three
Stories and Ten Poems (Ba Câu Truyện
và Mười Bài Thơ) va In Our Time
(Thời của Chúng Ta) chỉ là cái để thử trước khi cái
thực sự xuất hiện; ấy vậy mà ai ai cũng đã cảm thấy một tài năng
vĩ đại sẽ xuất hiện như Edmund Wilson đã xác chứng trong bài bình
duyệt của ông đăng trong The Dial *số tháng 10, 1924. Như William Faulkner đã nói, có lẽ
Hemingway đã sớm khám phá điều ông có thể làm, và đã tiếp tục đeo
đuổi nó, nhưng đó chính là nhược điểm của ông: ông thiếu táo
bạo. Mặt khác, đa số độc giả đều
thấy nhiều dấu hiệu tiến bộ và phát
triển từ truyện “Up in Michigan” và các bài viết ngắn đầu tay đăng
trong In Our Time đến
The Snows of Kilimanjaro (Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro), hoặc The Old Man and the Sea (Ngư Ông và Biển Cả). Hòa
quyện vào những thay đổi này là bằng chứng cho thấy Hemingway, giống
như Chekhov và James, càng ngày càng mài dũa bớt những ước thúc giả
tạo của truyện ngắn, và dần dần tiến gần đến loại “tiểu thuyết
ngắn được ban ân huệ” của James.
Những truyện đầu tay của Hemingway là các bài viết ngắn không
đến một trang; còn truyện cuối cùng của ông, dù cũng thuộc thể loại
truyện ngắn, lại dài như một quyển sách nhỏ. Đó là một quãng đường dài từ những
gì ông viết khi còn là một phóng viên trẻ ở Paris và học cách “bắt
đầu bằng những điều đơn giản nhất.”
Mọi khảo lược
về truyện ngắn Mỹ đều không thể bỏ qua phần luận bàn về ảnh hưởng to
lớn của đặc điểm cô đọng và tính khách quan của Hemingway, cũng như hư vô chủ nghĩa đầy tính triết học trong giai đoạn ban đầu, và quy
ước khắc khổ, những cái đã tạo nên mặt nạ tiện lợi cho những kẻ
bắt chước ông suốt 25 năm. Do đó chúng ta càng thấy tiếc khi cả
Hemingway lẫn Ring Lardner, cũng là một nhà viết truyện lớn khác
thuộc những năm 20 hiện
nay đều không được nhà xuất bản của mình tái bản truyện ngắn với
loại bìa mềm. Nếu Hemingway cho
chúng ta một thế hệ những người trẻ khắc khổ ít nói, lì lợm, ăn
nói ngang tàng, không thích những gì bóng gió hoặc “đưa đẩy,” ông cũng là người, hơn
ai hết kể từ Stephen Crane, đã làm sáng tỏ quá trình tạo ấn tượng,
và “trình tự của các diễn tiến câu truyện cùng các sự kiện góp phần tạo nên cảm
xúc.”
Nhà văn lừng
danh đồng thời với Hemingway và cũng đoạt giải Nobel văn chương như ông,
William Faulkner, đã đem lại cho truyện ngắn một nét khác. Dù ông tự sáng tạo ra, hay miền Nam
tạo ra một màn sương và các nhà văn chỉ theo đó diễn đạt, Faulkner vẫn là cha đẻ của trường
phái Gothic mới, đặc thù miền Nam. Ông sử dụng một ngòi bút méo mó, xây
dựng những nhân vật kỳ quặc, và cũng không ngần ngại phủ choàng lên
một số cảnh trong truyện của ông để đạt hiệu ứng Gothic đầy kịch
tính cao nhất. Tuy nhiên, Faulkner
còn cách xa Poe nhiều. Giống như
thuật phù phép của Hawthorne, tính méo mó, bạo lực, với những xác
đang mục rữa của Faulkner đi sát thực tế xã hội. Giống Hawthorne, ông là nhà mổ xẻ tội
lỗi con người; giống Poe, ông là người sống về “ban đêm,” là người
tạo ra các cơn ác mộng, bởi vì trong thế giới của Faulkner tội lỗi
nguyên thủy về nạn nô lệ da đen khiến mọi người phải mất ngủ, làm
biến thái nhân vật và khiến tâm hồn trở nên méo mó. Dù người ta có nhìn nhận toàn bộ tác
phẩm của ông là phản ánh sự xuống dốc và mục nát của miền Nam sau
Nội chiến, và, tới một mức độ nào đó, không cần phải đặt câu hỏi,
người ta phải thừa nhận rằng ông đã “tạo ra một thế giới riêng biệt.”
Tưởng cũng
không cần thiết phải nói thêm gì nữa về truyện ngắn. Cho đến nay những ý tưởng cải tiến kỹ
thuật viết truyện ngắn của Poe, James, Anderson, Crane, Hemingway, và
Faulkner —cùng với đóng góp của Chekhov, Kipling, Joyce và Mansfield— đã
trở thành tài sản của mọi người.
Phương ngữ, cái mà một thời đã là phương tiện chuyển tải nét
hài hước và sau đó phong cách địa phương, đã chứng tỏ cho chúng ta
thấy nó có thể hòa nhập vào được với các tình huống nghiêm túc,
thậm chí chua chát qua ngòi bút Anderson và Ring Lardner, qua những tác
phẩm nhỏ thanh thoát của Katherine Ann Porter, qua nét vẽ tinh tế và
với thị hiếu cao tuyệt của James hay khuynh hướng Gothic miền Nam, hoặc
qua cái gọi là trường phái nhạy cảm của phụ nữ, nhưng phương ngữ
lại tránh được sự thái qúa của những cái đó, và dần dần nói lên
cho chúng ta thấy giá trị thực sự và vị trí xứng đáng của nghệ
thuật truyện ngắn. Eudora Welty, nhà
văn đầy tài năng ứng xảo tuyệt vời, đã học được từ Katherine
Mansfield, James, Faulkner, Porter, và bà đã viết về những điều kỳ
quặc pha trộn cả hài lẫn bi với kỹ xảo tầm cỡ như Faulkner.
Cần phải chú
ý mặc dù tiểu thuyết có vẻ xuống dốc từ đỉnh cao những năm 1920
và đầu những năm 1930, riêng truyện ngắn không hề cho ta
thấy dấu hiệu nào nó đã kiệt sức hoặc bị không rõ hướng đi. Khi
những người hiếu kỳ trên thế giới hỏi chúng ta ai là nhà văn trẻ và
giỏi của Mỹ, những người nối gót Hemingway, Faulkner, Fitzgerald,
Wolfe, và Steinbeck, chúng ta có thể gặp khó khăn không tìm đủ người
thay thế cho những tiểu thuyết gia đó, nhưng chúng ta lại ít gặp khó
khăn khi nêu tên những nhà văn trẻ tuổi viết truyện ngắn xứng đáng so
với các bậc tiền bối của họ.
Trong tuyển tập này chúng tôi chỉ xin giới thiệu qua một vài
nhà văn như thế, để chỉ ra rằng truyền thống truyện ngắn, vốn đã đạt
đến đỉnh cao những năm 1920, từ lúc ấy đến giờ đã tiến đến đâu.
Chính qua
truyện ngắn chúng ta mới thấy rõ người Mỹ chúng ta, bởi vì chúng
cho chúng ta ngàn mắt, ngàn cách nhìn, ngàn tình huống kể chuyện,
và ngàn giây phút giúp chúng ta hiểu rõ mình hơn. Điều mà truyện ngắn hiện đại nhắm vào có
lẽ là một sự soi sáng, chứ không hẳn là một cú sốc hay “hiệu ứng”:
Kể từ Poe, phải nói chúng ta đã đi
được một bước dài. Về chủ đề,
truyện ngắn nay đã bàn rộng rãi đến ngõ ngách biên địa của đời
sống chúng ta: thoạt đầu do các
nhà văn viết về đặc điểm, màu sắc địa
phương giúp phát triển bao gồm mọi miền địa lý và con người, tiếp
đến nhờ Anderson cùng các nhà văn nối gót ông bành trướng thêm để đi
vào những hành vi con người trước đây bị cấm kỵ, và rồi được các nhà
văn về sau khai thác cả đến vùng vô thức của con người.
--
* The Dial là tạp chí phê bình văn học của Mỹ
từ 1840 đến 1929.
Wallace và Mary Stegner