THƠ THIỀN
Cao Huy Thuần
Nguyễn Duy qua chơi
Pháp, mang theo quyển sách "Thơ Thiền Lê-Nguyễn" anh
vừa xuất bản cùng với Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill. Sách in mỹ thuật, giấy
láng, bìa cứng, ảnh đẹp, sang trọng, cầm trên tay chỉ muốn nâng niu. Lời giới thiệu ở đầu sách, dưới ngòi bút của
thầy Thích Phước An, xứng tầm với sách, đầy đủ trong nội dung, đạo vị trong lời
lẽ, tưởng khó nói gì thêm. Được tặng sách, tôi chỉ biết cảm động, nói lên vài
lời cảm tạ tác giả, cốt để cùng chia sẻ với nhau một cái mê chơi sách đẹp, sách
quý.
Thiền sư Ryokan (1758-1831) của Nhật nói về thơ
của mình như sau:
Ai bảo thơ của tôi là thơ?
Thơ của tôi không phải là thơ
Một khi đã biết thơ của tôi không phải là thơ
Khi đó ta có thể bàn luận về thơ
Thơ của tôi không phải là thơ
Một khi đã biết thơ của tôi không phải là thơ
Khi đó ta có thể bàn luận về thơ
Các ông thiền sư làm thơ mà không nghĩ rằng mình
là thi sĩ. Các ông làm thơ mà không nghĩ rằng mình làm thơ. Và thơ thiền thường
là như vậy. Chỉ là một phút xuất thần ngộ đạo. Nhưng "ngộ" như thế
nào, thấy cái gì, nói ra ai hiểu, mà chính mình nói ra cũng không được, vì cái
mà mình thấy vượt lên khỏi ngôn ngữ, không diễn ra được bằng lời. Cho nên phải
mượn thơ vì thơ có khả năng vượt lên khỏi ngôn ngữ. Trong thơ có hồn, hồn ấy đi
thẳng vào trực giác của người đọc, không phải ai cũng cảm nhận được và cũng không
phải ai cũng cảm nhận giống ai. Có lẽ thơ hay nào cũng vậy, nhưng thơ thiền
nhắm thẳng vào tâm linh và tâm linh thì chỉ có thể cảm nhận sâu sắc qua trực
giác. Dù là cùng nhìn cảnh cả, và dù nhà thơ nào cũng "đối cảnh sinh
tình", cảnh trong thơ thiền không phải là vô tình mà chính là cái tâm của
sự vật hòa làm một với cái tâm của người ngắm. Đối tượng của thiền không có gì
khác hơn là tâm gặp tâm, cái tâm nguồn cội sáng trong nói trong câu thơ của
thiền sư Chân Nguyên:
Liễu liễu bản lai vô nhất vật
Chân nguyên trạm tịch phục hoàn nguyên
Chân nguyên trạm tịch phục hoàn nguyên
Nguyễn Duy dịch thơ:
Xưa nay vạn pháp vô thường
Chân nguyên sẽ trở về nguồn lặng trong
Chân nguyên sẽ trở về nguồn lặng trong
"Vạn pháp không hoa
giai bất thực", câu đầu của bài thơ là
như vậy: mọi vật có đấy nhưng có cũng như hoa đốm giữa hư không, có mà không có
thực. Biết như vậy rồi thì cái tâm vắng lặng của nguồn cội hiện ra. Câu thơ
chứa đựng tính triết lý.
Rất nhiều khi câu thơ chẳng có gì triết lý, chỉ
là cảnh vặt thôi, nhưng thiền vị bay lên như bướm thoát ra khỏi kén, và trực
giác chợt sáng lên trong tâm của người đọc. Những phút xuất thần như thế thường
nằm nơi câu cuối của bài thơ. Chẳng hạn: giữa làn mây trắng có hòn núi xanh.
Thì có gì lạ đâu, cảnh vặt vẫn thấy hàng ngày. Vậy mà, lạ thật, tâm quyện lấy
Phật, Phật quyện lấy tâm như núi với mây:
Phật tức tâm hề tâm tức Phật
Thanh sơn chi tại bạch vân trung
Thanh sơn chi tại bạch vân trung
Nguyễn Bá Chung dịch thơ:
Dứt duyên đời thật thong dong
Lòng thanh tịnh sắc không chẳng lầm
Tâm là Phật, Phật là tâm
Ẩn trong mây trắng rạng tầm núi xanh
Lòng thanh tịnh sắc không chẳng lầm
Tâm là Phật, Phật là tâm
Ẩn trong mây trắng rạng tầm núi xanh
Câu thơ có thể hiểu như vậy, nhưng cũng có thể
cảm nhận một cách khác, "thiền" hơn: mây trắng là mây trắng, cái ẩn
sau mây trắng là núi xanh, sự vật hiển lộ như sự vật vốn thế, cái thấy không bị
lăng nhăng chi phối là cái thấy thật, thấy sự vật như là sự vật. Cái thấy ấy,
chính là thấy Phật. Chẳng có chữ nào là triết lý, nhưng học cả đời mới hiểu thế
nào là cái tâm nhìn sự vật qua hai chữ sắc không.
Bác nông phu già nằm ngủ dưới gốc tùng, không
nghe tiếng chuông chùa buổi trưa: thì có gì nhiệm mầu? Nhưng ôi, tĩnh yên, vắng
lặng, cái tâm không vọng động của Nguyễn Khuyến lắng lại trong giấc ngủ buổi
trưa, cả tiếng chuông cũng lắng:
Dã lão vị tri chung hưởng ngọ
Phóng ngưu sơn lộc tọa tùng miên
Phóng ngưu sơn lộc tọa tùng miên
Nguyễn Bá Chung dịch thơ:
Lão nông đâu tiếng chuông khai
Thả trâu dưới gốc nằm say giấc nồng
Thả trâu dưới gốc nằm say giấc nồng
Nguyễn Khuyến nằm trong quyển sách là quá đúng,
vì thơ ông thấm đẫm thiền vị. Và thơ thiền, dù ở Việt Nam, Nhật Bản hay Trung
Hoa, không phải là chỉ của các thiền sư. Có hai mùi vị trong thơ thiền: một là
để nói lên chứng đắc của mình, như một số bài thơ của các thiền sư; hai là để
diễn tả cảm giác đượm chất tâm linh như phần đông thi tứ của các thi hào. Cảnh
chùa thường gợi lên thi tứ như thế, cho nên trong tuyển tập của Nguyễn Duy,
nhiều bài thơ được làm khi các nhà thơ viếng chùa. Người đọc giật mình khi thấy
trong số các nhà thơ đó có cả bà chúa của "cõi tục" là Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương cũng làm thơ thiền? Thì hãy xem bà leo lên núi Đông Sơn. Bà thấy
gì ngoài mây khói sông nước và cò trắng?
Ngộ đạo cao tăng huề tích khứ
Hiển thân cổ Phật đáo kim truyền
Đăng lâm độc bộ cao sơn thượng
Thừa hứng lâm lưu nguyệt mãn thuyền
Hiển thân cổ Phật đáo kim truyền
Đăng lâm độc bộ cao sơn thượng
Thừa hứng lâm lưu nguyệt mãn thuyền
Nguyễn Duy dịch thơ:
Cao tăng cầm gậy viên thông
Hiện thân Phật tổ giữa lòng thế gian
Một mình dạo núi Đông Sơn
Trào dâng thi hứng, trăng tuôn đầy thuyền
Hiện thân Phật tổ giữa lòng thế gian
Một mình dạo núi Đông Sơn
Trào dâng thi hứng, trăng tuôn đầy thuyền
Nếu hồn thơ của các nhà thơ lớn Việt Nam ở các
thế kỷ trước cũng đầy thiền vị như thế thì đúng là mùi thiền đã đi vào hồn dân
tộc và văn học Việt Nam như hương hoa sen lan khắp mặt hồ.
Cái thú đọc thơ thiền
chữ Hán khiến tôi thông cảm với cái khó dịch thơ, nhất là dịch thơ ra tiếng
nước ngoài. Tôi chỉ lấy một trong nhiều ví dụ: dịch thế nào cho đúng nghĩa và
thật gọn từ "vô vi" gặp nhiều lần trong sách? Trong
đạo Lão, "vô vi" không phải là không làm gì, mà là "vô
vi nhi vô bất vi" , nghĩa là "không làm gì nhưng không có
cái gì là không làm". Trong đạo Phật, "vô vi" là làm mà "vô
chấp", "vô trụ", làm trong trạng thái an nhiên, tự tại, không
vướng mắc, xa lìa mọi nhân duyên tạo tác. Chỉ nói tóm tắt như vậy mà đã khó
dịch, huống hồ là tìm cho được một từ, hai từ, để đưa vào cho đúng một câu thơ?
Dịch là "non-doing" như trong sách là dịch chữ chứ
không đúng nghĩa, dịch là "non-forcing" như Alan
Watts e đạt hơn chăng?
Cao Bá Quát cũng có một
câu thơ khó dịch khi dường như ông đem tích "niêm hoa vi
tiếu" của thiền tông vào thơ. Trong một hội chúng ở núi Linh Sơn,
đức Phật cầm một bông hoa đưa lên, chẳng ai hiểu Phật muốn nói gì, chỉ một mình
Ca Diếp mỉm cười. Thiền tông lấy tích đó làm nguyên tắc, thiền đạo không truyền
bằng lời, chỉ "tâm truyền tâm". Cao Bá Quát lên chơi núi Sài buổi
chiều sau cơn mưa, đề thơ trên vách đá:
Bình sinh lãng tích na trùng vấn
Thủ bả liên hoa tiếu tự tri
Thủ bả liên hoa tiếu tự tri
Nguyễn Duy dịch thơ:
Dấu xưa chi hỏi nhiều lời
Cầm sen mình tự mỉm cười với sen
Cầm sen mình tự mỉm cười với sen
Buổi chiều, mưa tạnh, mây núi giăng bốn phía,
ông phải vạch rêu tìm dấu chân của người xưa, gọi thắp đèn để đọc văn bia còn
đó, vậy hoa sen nào trong tay mà cầm? Mà cười? Ông cười mà tự biết. Ông biết
cái gì? Ông cười với ai? Với ông? Hay với Ca Diếp? Ôi, khổ thay, ngôn ngữ đã
hạn hẹp, mà ý thiền thì bao la, người nước ngoài làm sao thấm được câu thơ của
ông Quát khi dịch ra tiếng nước ngoài?
Khép lại quyển thơ, tôi
trở về với băn khoăn khi mở sách, đọc bài thơ đầu của Nguyễn Trãi, Du
Nam Hoa Tự, với hai câu cuối dính với gốc thiền:
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần
Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung dịch thơ:
Tào Khê tuôn chảy một giòng
Tẩy cho muôn kiếp sạch bong bụi trần
Tẩy cho muôn kiếp sạch bong bụi trần
Tào Khê là tên con suối chảy qua chỗ Lục tổ Huệ
Năng ở. Thế còn "Nam Hoa Tự"? Chú thích trong sách: Nam Hoa là một
ngôi chùa lớn ở huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Hồi nhỏ, tôi học
sử, ghi tạc trong lòng câu nói của Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trãi,
khi bị quân Minh bắt giải qua Tàu. Đến ải Nam Quan, thấy Nguyễn Trãi đi theo,
khóc lóc, Phi Khanh nói: "Con trở về, báo thù cho cha, rửa nhục cho nước,
đi theo khóc lóc mà làm gì?" Vậy Nguyễn Trãi đi qua Tàu lúc nào mà viếng
Nam Hoa tự?
Câu hỏi thuộc về lịch sử và văn bản học, không
dính đến thiền nữa, tôi khép quyển sách đẹp và mong mỏi được các nhà chuyên môn
về sử chỉ cho.
Cao Huy Thuần