Wednesday, July 31, 2019

Sự Sụp Đổ Của Ngôi Nhà Usher (8) -- Truyện Ngắn của Edgar Allan Poe (1809-1849)


Theo yêu cầu của Usher, đích thân tôi giúp anh thu xếp việc chôn cất tạm thời.  Xác cô em đã được khâm liệm, và chúng tôi đưa xác đến nơi an nghỉ.  Hầm mộ, nơi chúng tôi đặt quan tài vào, nhỏ, ẩm thấp, và ánh sáng hoàn toàn không thể rọi vào được (đã lâu lắm rồi hầm mộ ấy không được ai mở ra, nên các ngọn đuốc của chúng tôi có phần bị ngộp bởi bầu không khí ngột ngạt trong đó, làm chúng tôi không thấy rõ để có thể nhìn kỹ hầm mộ).  Hầm mộ ấy nằm rất sâu ngay bên dưới căn phòng tôi ngủ trong tòa lâu đài. Vào thời phong kiến xa xưa, dường như nó đã được dùng vào những mục đích tồi tệ nhất của thành lũy chính, rồi về sau nó trở thành chỗ chứa thuốc súng hoặc một số chất dễ cháy, vì một phần sàn nhà của tầng hầm, và toàn bộ phần bên trong của lối đi hình vòm cung trải dài mà chúng tôi phải đi qua để đến hầm đều được bọc bằng đồng.  Cánh cửa đồ sộ bằng sắt cũng được bảo vệ tương tự như thế.  Khi cửa hầm di chuyển quanh bản lề, sức nặng của nó gây ra một âm thanh kẽo kẹt lạ lùng cưc kỳ chói tai.


Sau khi đã đặt quan tài lên dàn khung trong hầm mộ, chúng tôi hé nắp quan chưa đóng đinh để nhìn gương mặt của người qúa cố.  Bấy giờ nét giống nhau của hai anh em lần đầu tiên làm tôi chú ý. Usher có lẽ đoán được tư tưởng của tôi, anh lẩm bẩm vài chữ mà qua đó tôi biết thêm là người quá cố và anh là hai anh em sinh đôi; và giữa hai người có một lòng thương cảm rất khó hiểu.  Dẫu vậy, chúng tôi không nhìn người chết lâu vì chúng tôi không thể không kính sợ cô ấy.  Như thường thấy ở tất cả các chứng bệnh gây động kinh, căn bệnh khiến cô em phải lìa đời khi đang tuổi trưởng thành mỉa mai thay đã để lại nét hồng hào trên ngực và trên gương mặt nàng, với nụ cười như còn phảng phất trên môi người chết trông thật dễ sợ.  Chúng tôi đậy quan tài lại như cũ và vặn đinh ốc nắp hòm.  Sau khi đã đóng kỹ cửa sắt, chúng tôi mệt mỏi trở về chỗ ở không kém phần u ám của mình ở tầng trên tòa nhà.
Giờ đây, sau khi vài ngày đau buồn đã trôi qua, tôi có thể thấy được sự thay đổi nơi nét rối loạn tâm thần của bạn mình.  Điệu bộ thường thấy của anh ấy đã biến mất.  Anh không buồn làm, hoặc anh đã quên hẳn, những công việc anh thường làm trước đây.  Anh rảo bước từ phòng này đến phòng kia, một cách vội vã, bồn chồn, vô định.  Gương mặt xanh xao của anh nhuộm vẻ bệnh hoạn dễ sợ, còn ánh mắt sáng giờ đã hoàn toàn lụi tắt.  Giọng nói khàn khàn của anh trước đây tôi còn nghe thấy cũng đã lặng tiếng; và miệng anh chỉ thốt ra những lời lắp bắp, run run như hoảng sợ.  Quả thật có những lúc tôi nghĩ rằng tâm tư bồn chồn xao xuyến không ngừng của anh đang khốn khổ vật lộn với một điều bí ẩn đè nặng và anh phải đấu tranh, thu hết can đảm để nói ra điều đó.  Lại có lúc tôi phải đổ thừa tất cả chẳng qua chỉ do sự điên loạn bất thường không thể lý giải được nơi bạn tôi, bởi vì tôi thấy anh nhìn vào khoảng trống cả giờ, thái độ cực kỳ chăm chú, như thể anh đang lắng tai nghe một thứ âm thanh tưởng tượng nào đó.  Không còn kinh ngạc gì khi tình trạng của anh ấy đã lây sang tôi, khiến tôi đâm sợ hãi.  Tôi cảm thấy những ảnh hưởng man dại do óc mê tín kỳ lạ và đầy ấn tượng của anh đang len lỏi vào người tôi một cách từ từ nhưng chắn chắn.
Một tối khi lên giường ngủ, vào khoảng bảy hoặc tám ngày sau khi an táng cô Madeline vào hầm sâu dưới tòa lâu đài, thật kỳ lạ, tôi nghiệm thấy sức mạnh của những cảm xúc ấy thật rõ ràng.  Giấc ngủ không đến với tôi được, và giờ này đến giờ kia cứ thế trôi qua. Tôi cố sức suy nghĩ để tìm hiểu lý do vì sao tôi lại bị nỗi hồi hộp lo sợ đè nặng tâm tư.  Tôi cố gắng tin rằng phần lớn, nếu không nói là tất cả, những gì tôi cảm thấy đều do ảnh hưởng của đồ đạc u ám trong căn phòng gây ra --những tấm màn sẫm màu, tả tơi, đang bị ngọn gió bão mới nổi lên hành hạ từng cơn, bay tới bay lui phần phật trên vách tường, tạo nên tiếng sột soạt khó chịu khi chúng chạm vào những vật trang trí nơi chiếc giường.  Nhưng những cố gắng lý giải của tôi đều không mang lại kết quả.  Toàn thân tôi dần dần rung lên không cưỡng lại được; và cuối cùng trên tim tôi như có con quỷ tôi hoàn tòan không biết từ đâu đến đang đè lên.  Miệng há hốc và cố vùng vẫy để thoát khỏi nó, tôi bật người ra khỏi chiếc gối tôi đang nằm, mắt chăm chăm nhìn vào khoảng không đen tối của căn phòng, lắng tai nghe ngóng --tôi không rõ vì sao, ngoại trừ có một cái bóng không rõ ràng thúc dục tôi làm thế--những âm thanh nho nhỏ, mơ hồ nào đó, không biết từ đâu từng chập vọng đến mỗi khi tiếng gió bão dịu xuống.  Lòng vô cùng hồi hộp lo sợ, không biết vì sao và cũng không thể chịu nổi, tôi vội vã thay áo quần (vì tôi cảm thấy đêm ấy tôi không thể ngủ được nữa), và, để ra khỏi trạng thái đáng thương tôi đang bị lâm vào, tôi cố vực mình tỉnh dậy bằng cách đi tới đi lui thật nhanh trong căn hộ. 


(Còn tiếp)