Nãy giờ người lữ khách lớn tuổi hơn nghiêm nghị lắng nghe; nhưng
đến đây ông ta bỗng bật ra cười một hơi, không kềm chế được, khiến cả
người ông ta rung lên đến nỗi cây trượng hình giống con rắn của ông
trông có vẻ cũng uốn éo theo ông như đồng cảm thật sự.
“Ha! ha!
ha!” ông ta vẫn cười lớn tiếng, rồi ráng
kềm mình lại, ông nói, “Này, anh Goodman Brown, hãy đi tiếp, đi tiếp,
nhưng chớ có làm tôi chết vì cười nhé.”
“À, thôi để kết thúc vấn đề ngay,” Goodman Brown nói tỏ
vẻ rất bực bội, “còn Faith, vợ tôi nữa.
Chuyện này sẽ khiến tâm hồn nhỏ bé dịu dàng của nàng rất đau
buồn; tôi thà tan nát lòng mình còn hơn để Faith chịu như thế.”
“ Không, nếu qủa thế,“ người kia trả lời, “anh Goodman Brown à,
tôi chẳng muốn vì 20 người đàn bà như cái bà đang đi khệnh khạng trước
mặt chúng ta kia mà Faith phải bị hại.”
Vừa nói ông ta vừa chỉa cây trượng vào một bóng người đàn bà
đi phía trước,
Goodman Brown nhận ra đó là một phụ nữ rất ngoan đạo và gương mẫu, người đã
từng dạy anh giáo lý vấn đáp khi anh còn nhỏ, và là cố vấn đạo
đức tâm linh cho anh, cùng nhà truyền giáo và ngài phó tế Gookin.
“Thật kỳ lạ bà Goody Cloyse lại đi vào chốn rừng hoang vu vào
lúc trời tối như vầy,” chàng nói. “Nhưng
nếu ông bạn cho phép, tôi sẽ đi băng ngang cánh rừng cho đến khi chúng
ta bỏ lại người đàn bà Thiên Chúa giáo này phía sau. Vì bà ấy không biết ông, bà có thể
hỏi tôi đang đi với ai và đi đâu.”
“Anh đã nói thế thì anh cứ đi vào rừng, để tôi đi theo con lộ
này vậy.”
Nói là làm, chàng trai trẻ quay đi, nhưng cẩn thận quan sát
người đồng hành với mình lúc đó đang đi trên đường thật nhẹ nhàng cho
đến khi ông chỉ còn cách người đàn bà một cây trượng. Trong khi ấy bà ta rảo bước thoăn thoắt
nhanh hơn so với tuổi của bà, vừa đi bà vừa lẩm nhẩm cái gì đó
không rõ, hẳn là bà đang cầu nguyện.
Người lữ khách giơ cây trượng ra đụng vào sau cổ nhăn nheo của
bà với đầu trượng giống như đuôi rắn.
“Đồ quỷ dữ!” bà lão ngoan đạo la to lên.
“Thế ra Goody Cloyse biết đây là bạn xưa của bà à?” người lữ
khách lên tiếng khi đứng đối mặt với bà và tựa vào cây gậy uốn éo
của mình.
“À, thật thế à, ngài khả kính đấy sao?” bà già hiền từ cất
tiếng nói lớn. “Vâng, quả thật thế,
và ngài trông y như hình dạng của Goodman Brown, người mà tôi đã có
lời đồn đãi hồi xưa, tức là ông nội của anh chàng ngốc nghếch có
cùng tên hiện giờ. Nhưng – ngài khả
kính có tin không? –cây chổi của tôi đã biến mất một cách lạ lùng,
tôi nghi nó bị mụ phù thủy không bị xử treo cổ tên là Goody Cory lấy
cắp, và cũng thế, khi tôi làm lễ xức dầu bằng nước rau cần hoang (smallage), pha chế với hoa ngũ đài vàng (cinquefoil), và hoa bờm sói màu tím (aconite/wolf’s bane),”
“trộn với bột
lúa mì và mỡ của trẻ sơ sinh,” bóng người có dạng giống lão Goodman
Brown nói thêm.
“À, thế ngài cũng biết công thức pha chế dầu xức,” bà già nói
lớn, tiếng nghe lanh lãnh. “Như tôi nói, tôi đã sẵn sàng đến dự
buổi họp, và không có ngựa nên tôi
quyết định đi bộ vì họ cho tôi biết rằng tối nay sẽ có một chàng
trai trẻ đễ mến đến dự lễ hiệp thông.
Nhưng bây giờ nếu ngài khả kính cho tôi vịn cánh tay ngài, thì
chỉ trong chớp mắt chúng ta sẽ đi đến đó ngay.”
"Không thể được," người kia đáp. "Goody Cloyse, tôi không thể để bà vịn cánh tay của tôi được, nhưng bà có thể dùng cây trượng này nếu bà muốn."
Nói xong người ấy ném cây trượng xuống cạnh chân bà già, tại đấy có lẽ cây trượng được hóa thành rắn thật, vì trước kia nó vốn là một trong những khúc cây được chủ nó cho những đạo sĩ Ai cập mượn. Tuy nhiên, Goodman Brown không hề biết về sự kiện này. Chàng trố mắt ngước nhìn kinh ngạc, rồi khi nhìn xuống lại, chàng không còn thấy Goody Cloyse và cây trượng đâu nữa, chỉ còn thấy người đàn ông đi với chàng đang đứng một mình, bình tĩnh chờ chàng như thể không có chuyện gì xảy ra.
"Bà già ấy dạy tôi giáo lý đó," chàng trai trẻ nói; một lời bình phẩm thật đầy ý nghĩa.
(Còn tiếp)