What are they?
The Bhikkhu diligently observes his body. With effort and mindfulness he observes it and guards against all desires, attachments and hatred.
The Bhikkhu diligently observes his feelings and sensations. With effort and mindfulness he observes them, and guards against from all desires, attachments and hatred.
The Bhikkhu diligently observes his cognition and consciousness. With effort and mindfulness he observes them, and guards them from all desires, attachments and hatred.
The Bhikkhu diligently observes dharmas. With effort and mindfulness he observes them and guards from all desires, attachments and hatred.
Maha Satipatthana Sutta
..................................
Thấy bản chất vô thường, khổ, vô ngã của sự vật là mục tiêu, hay cốt tủy của Thiền Minh Sát. Nếu bạn hành Thiền Minh Sát bạn phải thấy ba đặc tính này bởi vì chữ minh sát (vipassanà) có nghĩa là thấy bằng nhiều cách. Và thấy bằng nhiều cách có nghĩa là thấy sự vật dưới ánh sáng của Vô thường, dưới ánh sáng của Khổ và dưới ánh sáng của Vô ngã. Điều quan trọng và mục tiêu của việc hành Thiền Minh Sát là thấy ba đặc tính này, và để thấy ba đặc tính này chúng ta phải quán sát, theo dõi đề mục trong hiện tại. Muốn chú tâm vào đề mục hiện tại bạn cần phải tinh tấn. Không có tinh tấn không thể đạt được kết quả tốt đẹp. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy: Phải có tinh tấn, ý thức sáng suốt và chánh niệm trong khi hành thiền minh sát. Khi chúng ta có thể thực hành trọn vẹn, đầy đủ những điều kiện này - tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm - và tâm định thì chúng ta có thể chế ngự được tham ái và ưu phiền trên đối tượng chúng ta đang quán sát.
GIỚI THIỆU KINH ĐẠI NIỆM XỨ
Maha Satipatthana Sutta
Tác giả: Hòa thượng Silananda
Dịch giả: Khánh Hỷ
Tác giả: Hòa thượng Silananda
Dịch giả: Khánh Hỷ
Này các thầy tỳ-khưu...
Đây là con đường duy nhất để thanh lọc (tâm) chúng sanh, chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm, đạt Thánh Đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ (bốn cách quán sát).
Bốn cách quán sát đó là gì?
Này các thầy tỳ-khưu, ở đây (theo lời dạy này). tỳ-khưu quán sát thân trong thân, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại bỏ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong thân).
tỳ-khưu quán sát thọ trong thọ, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong thọ).
tỳ-khưu quán sát tâm trong tâm, tinh cần tỉnh giác và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong tâm).
tỳ-khưu quán sát pháp trong pháp, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong pháp).
....................
Bạn đã biết bốn căn bản hay bốn nền
tảng của sự thiết lập chánh niệm. Sở dĩ có bốn vì có bốn loại đối tượng:
1. Quán sát thân hay niệm thân: Đôi
lúc thân không có nghĩa là toàn thể cơ thể vật chất mà là một nhóm yếu tố hay
thành phần của vật chất. Hơi thở cũng được gọi là thân. Những thành phần khác
của thân cũng được gọi là thân ... Chữ thân ở đây phải hiểu là tất cả những gì
liên hệ với thân.
2. Quán sát thọ hay niệm thọ. Thọ là
một tâm sở. Bây giờ ta đau ở thân và ta kinh nghiệm được sự đau vật chất này
bằng tâm của ta. Trong tâm ta có một tâm sở gọi là thọ. Bởi vì đây là một sự
đau, nên cảm thọ đây là cảm thọ đau. Khi đức phật nói: tỳ-khưu quán sát thọ
trên thọ có nghĩa là quán sát trên tâm sở thọ này chứ không phải chánh niệm
trên sự đau. Trong thực hành khi đau ta chú tâm vào sự đau và quán sát chánh
niệm vào sự đau. Nhưng thực ra, khi ghi nhận hay niệm thầm "đau, đau"
là chúng ta đã thực sự ghi nhận tâm sở thọ, và tâm sở thọ này cảm nhận sự đau
trong cơ thể ta. Cảm thọ gồm 3 loại: Vui, khổ và vô ký.
3. Quán sát thức (thức) hay niệm
thức. Thông thường chữ citta được dịch là tâm nhưng nên dịch là thức đúng hơn.
Chữ Citta có nghĩa là ý thức. Trong Tâm Lý Học Phật Giáo, tâm là sự tập
hợp của bốn yếu tố. Vậy cái mà ta gọi là tâm thật ra là một tập hợp của bốn yếu
tố. Đôi khi có sự lẫn lộn giữa hai danh từ tâm và thức. Trước tiên hãy xem tâm
là sự tập hợp của thức và các yếu tố của tâm. Thức được định nghĩa là sự nhận biết
hay ý thức đối tượng. ý thức hay sự nhận biết đây không phải là sự nhận biết
hay ý thức trong chánh niệm. Thức ở đây chỉ là sự ý thức hay sự nhận biết thông
thường. Chẳng hạn như, tôi nhận biết có người nào đang đứng đó, mặc dầu tôi
đang nhìn đây. Sự nhận biết hay ý thức như vậy gọi là thức (citta). ít
ra trong Vi Diệu Pháp cũng gọi sự nhận biết đơn thuần này là thức. Theo nghĩa
thông thường thì chữ thức có một nghĩa rộng hơn hay hẹp hơn. Cần ghi nhận một
điểm ở đây là: Chúng ta dùng chữ thức để chỉ cho (citta), nhưng dịch như
vậy không chính xác. Thức được định nghĩa là một yếu tố hay thành phần của tâm,
và thành phần của tâm này làm nhiệm vụ ý thức hay nhận biết đối tượng. Chỉ khi
nào có nhận biết đối tượng thì mới có sự tiếp xúc (xúc) với đối tượng, cảm nhận
đối tượng, thích đối tượng, không thích đối tượng v.v... Như vậy, những tâm sở
đã hỗ trợ cho thức, nhưng đồng thời cũng là những thành phần của tâm. Như vậy,
trước tiên tâm được chia làm hai thành phần: Thức và tâm sở. Xúc, thọ, tưởng,
chú tâm, thích, không thích ... được gọi là những tâm sở (yếu tố của tâm). Theo
vi diệu pháp thì có 52 tâm sở và 52 tâm sở này được chia làm ba nhóm: thọ,
tưởng và hành. Như vậy, khi ta thêm thức vào nhóm thọ, tưởng hành này thì ta sẽ
có bốn thành phần của tâm: Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Mỗi khi tâm nhận đối tượng
thì bốn thành phần này cùng sinh khởi một lúc.
Đức Phật với trí tuệ cao siêu có thể
phân tích và định danh từng tâm sở này một cách tinh tế rõ ràng khi chúng đồng
thời nhận đối tượng. Đây là một điều thật kỳ diệu.
Khi đang hành thiền và có sự lo âu
phát sinh ta ghi nhận: "lo âu, lo âu", có nghĩa là lúc bấy giờ ta có
một thức đi kèm với lo âu. Đây là quán sát trên "thức". Khi ta ghi
nhận: "Giận, giận" thì ta cũng đang quán sát trên thức.
4. Quán sát Pháp trên Pháp: Dhamma
(Pháp) là một chữ Pàli rất khó dịch hay khó có thể dịch một cách chính xác. Tùy
theo từng trường hợp, chữ Dhamma được dùng với một nghĩa khác. Ta không thể
dùng một chữ cố định nào đó để dịch chữ Dhamma vì làm như thế sẽ sai. Dhamma
được dùng trong kinh Đại Niệm Xứ chỉ đơn giản để chỉ: Năm chướng ngại, năm nhóm
tập hợp, sáu căn, sáu trần, bảy pháp giác ngộ, bốn chân lý cao thượng. Chữ Pháp
dùng trong niệm pháp chỉ để chỉ các pháp nêu trên thôi. Như vậy, nên để nguyên
chữ Dhamma, đừng dịch, và hãy hiểu chữ Dhamma tùy theo từng trường hợp, từng
đoạn kinh. Phần lớn dịch Dhamma là "đối tượng thuộc về tâm" hay
"đối tượng của tâm". Nhưng cả hai lối dịch này đều không thỏa đáng.
Bây giờ chúng ta hãy học cách quán sát
pháp trên pháp. Nếu chú tâm vào sự sân hận là bạn đã quán sát pháp trên pháp. ở
đây, một lần nữa tôi nhắc lại: Pháp không có nghĩa là giáo pháp hay gì khác.
Thấy cái gì và bạn chú tâm chánh niệm vào cái đó là bạn đang quán sát pháp trên
pháp. Như vậy đề mục pháp để quán sát rất rộng bao gồm: Năm chướng ngại, năm
nhóm tập hợp, sáu căn, sáu trần, bảy pháp giác ngộ, bốn chân lý cao thượng. Nếu
chúng ta dịch Dhamma là đối tượng thuộc về tâm có nghĩa là lấy tâm làm đối
tượng để quán sát thì không đúng lắm vì có nhiều đối tượng không phải là tâm
(như các trần: hình sắc, mùi, vị ...). Nếu dịch là "đối tượng của
tâm" có nghĩa là bao gồm tất cả mọi đối tượng, đối tượng nào cũng được. Cả
thân lẫn tâm đều là đối tượng. Vậy thì niệm gì cũng có thể gọi là niệm pháp được
cả. Vì không thể nào dịch chữ Dhamma cho chính xác được, thế nên hãy để yên chữ
Pàli, đừng dịch.
Tôi đã từng nói với các bạn rằng
không phải thực hành bốn căn bản chánh niệm theo thứ tự ghi trong sách, cũng
không cố gắng tìm xem ta đang quán sát lãnh vực nào của chánh niệm: quán sát
thân, quán sát thọ, quán sát tâm hay quán sát pháp. Nếu cố gắng tìm xem ta đang
chánh niệm loại nào đây thì sẽ bị vọng tâm. Là một thiền sinh, bạn phải quán
sát chi nhận đề mục trong hiện tại; không cần tìm hiểu xem đề mục thuộc loại
nào: thân, thọ, tâm hay pháp gì cả. Dầu đề mục gì đi nữa, bổn phận của bạn là
chánh niệm ghi nhận để khỏi tham đắm, dính mắc hoặc ưu phiền sân hận trên đối
tượng mà bạn đang quán sát này.
Để khỏi bị tham ái và ưu phiền (sân
hận) bạn phải tinh tấn chú tâm chánh niệm. Bạn không có đủ thì giờ để tìm xem
đây là tâm là pháp hay đây là cái gì khác. Khi hành Thiền Minh Sát bạn phải
thực hành trên tất cả bốn căn bản chánh niệm mỗi một khi chúng diễn ra. Bao lâu
bạn chánh niệm trên đối tượng trong hiện tại là bạn đã hành thiền đúng, và hành
thiền tốt đẹp. Hành thiền không tốt là khi bạn bị tư tưởng lôi kéo đi, bạn quên
mất việc hành thiền trong vài giây hay trong vài phút. Nhưng bao lâu bạn còn
chánh niệm là bạn đã làm đúng và việc hành thiền đang tiến triển tốt đẹp.
Có thiền sinh nghĩ rằng nếu họ không
định tâm được trên đề mục chính là họ không hành thiền. Đôi khi họ nói:
"ô! Tôi đã phí thì giờ để ghi nhận tâm đi đây đi đó, và tôi không có nhiều
thì giờ để chú tâm với đề mục chính." Dầu bạn chú tâm vào đề mục chính hay
đề mục phụ, điều đó không quan trọng; bao lâu bạn còn chú tâm vào chúng được là
bạn đã hành thiền đúng.
Điều quan trọng đầu tiên trong việc
hành Thiền Minh Sát là chú tâm chánh niệm vào đề mục đang xảy ra trong hiện
tại. Đôi khi bạn bị thất niệm, bạn hãy lấy sự thất niệm này làm đề mục và ghi
nhận "quên, quên" hay "thất niệm, thất niệm" rồi trở về với
đề mục chính. Bạn phải luôn luôn chánh niệm trong mọi lúc, trong mọi nơi, và
nếu bạn có thể giữ chánh niệm liên tục, tâm khắn khít trên đề mục thì bạn sẽ
tiến bộ nhanh chóng và sẽ bắt đầu thấy được bản chất của sự vật; có nghĩa là
bạn sẽ thấy được đề mục sinh và diệt. Khi thấy được sự vật sinh diệt bạn cũng
thấy được sự vật là vô thường. Khi thấy được sự vật vô thường bạn cũng thấy
được bản chất đau khổ của sự vật và bản chất vô ngã hay thấy rằng bạn không thể
điều khiển hay kiểm soát chúng được; chúng sinh và diệt một cách tự do theo ý
muốn của chúng, ta không làm chủ được chúng. Khi thấy được như thế là bạn đã
thấy được ba bản chất tổng quát của mọi pháp hữu vi, pháp có điều kiện. Thấy
bản chất vô thường, khổ, vô ngã của sự vật là mục tiêu, hay cốt tủy của Thiền
Minh Sát. Nếu bạn hành Thiền Minh Sát bạn phải thấy ba đặc tính này bởi vì chữ
minh sát (vipassanà) có nghĩa là thấy bằng nhiều cách. Và thấy bằng nhiều cách
có nghĩa là thấy sự vật dưới ánh sáng của Vô thường, dưới ánh sáng của Khổ và
dưới ánh sáng của Vô ngã. Điều quan trọng và mục tiêu của việc hành Thiền Minh
Sát là thấy ba đặc tính này, và để thấy ba đặc tính này chúng ta phải quán sát,
theo dõi đề mục trong hiện tại. Muốn chú tâm vào đề mục hiện tại bạn cần phải
tinh tấn. Không có tinh tấn không thể đạt được kết quả tốt đẹp. Đó là lý do tại
sao Đức Phật dạy: Phải có tinh tấn, ý thức sáng suốt và chánh niệm trong khi
hành thiền minh sát. Khi chúng ta có thể thực hành trọn vẹn, đầy đủ những điều
kiện này - tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm - và tâm định thì chúng ta có thể
chế ngự được tham ái và ưu phiền trên đối tượng chúng ta đang quán sát.
Source: