Your vision will become clear only when you look into your heart.... Who looks outside, dreams. Who looks inside, awakens. Carl Jung
Saturday, July 15, 2023
Quotes by Milan Kundera
Milan Kundera từng nói
Nguyên Ngọc dịch
Báo Le Figaro (Pháp) (http://evene.lefigaro.fr/citations/milan-kundera) đã chọn trích một số câu đáng nhớ từ các tác phẩm hoặc các cuộc trò chuyện của nhà văn Pháp gốc Tiệp nổi tiếng Milan Kundera. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
– “Trẻ con không có quá khứ, và đấy là bí ẩn của vẻ ngây thơ mê hồn nơi nụ cười của chúng.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
- “Tốc độ là hình thức cực khoái mà cuộc cách mạng kỹ thuật tặng cho con người.” (La Lenteur)
– ‘Bất hạnh lớn nhất của con người, là một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Chẳng còn chút hy vọng ly hôn.” (Risibles amours)
– “Cô đơn: vắng bặt dịu êm những cái nhìn.” (L’Immortalité)
– “Sex không phải là tình yêu, đấy chỉ là một lãnh địa do tình yêu chiếm đoạt.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Chuyện tình dục thì cũng như trong khiêu vũ: bao giờ cũng là một trong hai người bạn nhảy dẫn dắt người kia.” (L’Immortalité)
– “Không thể có tình yêu thể xác mà không có bạo lực.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Âm nhạc: một cái bơm thổi phồng tâm hồn.” (L’Immortalité)
– “Nếu mọi người đều có khả năng sát hại kẻ khác một cách lén lút và từ xa, nhân loại sẽ biến mất trong vài phút.” (La Valse aux adieux)
– “Những tiểu thuyết lớn bao giờ cũng thông minh hơn tác giả của chúng đôi chút.” (L’Art du roman)
– “Kẻ đi tìm cõi vô tận chỉ cần nhắm mắt lại.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Trẻ con: tồn tại phi tiểu sử.” (L’Identité)
– “Chăm chút cho hình ảnh của chính mình, là sự non dại không thể chữa được của con người.” (L’Immortalité)
– “Tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại” là một lời nói của người trí thức đánh giá thấp chứng đau răng của mình.” (L’Immortalité)
– “Con người bù lại gánh nặng của điều ác bị kẻ khác giáng xuống trên lưng bằng khối căm thù của mình.” (La Plaisanterie)
– “Văn hóa, là ký ức của nhân dân, là ý thức tập thể về sự tiếp nối của lịch sử, là cách thức tư duy và sống.” (Le Monde – tháng 1 năm 1979)
– “Chỉ một trí thông minh rất lớn mới có thể thổi một ý nghĩa lô gích vào những ý tưởng điên rồ.” (L’Identité)
– “Mọi người đàn bà đều đo lường độ già đi của mình căn cứ vào chỗ đàn ông quan tâm hay thờ ơ đối với cơ thể họ.” (L’Identité)
– “Ngốc nghếch là kẻ có câu trả lời cho mọi chuyện. Minh triết của một cuốn tiểu thuyết là có một câu hỏi cho mọi thứ.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng 2, 1984)
– “Lạc quan là thuốc phiện của giống người! Tinh thần thánh thiện bốc mùi ngu ngốc.” (La Plaisanterie)
– “Người ta muốn làm chủ tương lai chỉ là để có thể thay đổi quá khứ.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Để cho một mối tình là không thể quên, thì ngay từ phút đầu phải có những ngẫu nhiên liên quan.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Quyền lực của nhà báo không ở chỗ có quyền đặt một câu hỏi, mà là quyền đòi một câu trả lời.” (L’Immortalité)
– “Quyến rũ một người đàn bà, là khả năng của bất cứ tên ngu ngốc nào. Nhưng còn phải biết cắt đứt; chính điều đó cho ta nhận ra một người đàn ông già giặn.” (La Valse aux adieux)
– “Một tình yêu quá mức là một tình yêu tội lỗi.” (La Valse aux adieux)
– “Nhà tiểu thuyết phải trình bày thế giới đúng như nó là thế: một bí ẩn và một nghịch lý.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Cũng như một bản nhạc lớn có thể nghe lại mãi không thôi, những cuốn tiểu thuyết lớn được viết ra để mà đọc đi đọc lại.” (Les Testaments trahis)
– “Ý nghĩa của cuộc sống đích xác là để mà vui đùa với cuộc sống.” (Risibles amours)
– “Kẻ không quan tâm tới đích đến, không hỏi mình đi đâu!” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Ký ức không quay phim, ký ức chụp ảnh.” (L’Immortalité)
– “Mọi người đều có xu hướng nhìn thấy trong sức mạnh một kẻ phạm tội và trong sự yếu đuối một nạn nhân vô tội.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Việc thăm dò [dư luận] đã trở thành một thứ sự thật thượng thặng; hay nói cách khác, nó đã trở thành chân lý.” (L’Immortalité)
– “Có một đứa con, là bày tỏ một một thỏa ước tuyệt đối với con người. Nếu tôi có một đứa con, thì cũng như tôi nói: tôi đã được sinh ra, tôi đã nếm trải cuộc đời và tôi nhận thấy nó thật hay đến mức đáng được nhân bội lên.” (La Valse aux adieux)
– “Dũng cảm trong cô đơn, không ai biết, không ai khác đồng tình, tự mình đối mặt với mình, điều đó đòi hỏi một lòng kiêu hãnh lớn và rất nhiều sức mạnh.” (La Plaisanterie)
– “Không gì vô ích hơn là muốn chứng minh một điều gì đó cho bọn ngu si.” (L’Immortalité)
– “Giá trị của một ngẫu nhiên ngang bằng với độ xác suất thấp của nó.” (L’Immortalité)
– “Điều phân biệt giữa người tự học với một người qua trường lớp, không phải là độ dày tri thức, mà là các cấp độ khác nhau về sức sống và lòng tự tin.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Có những tư tưởng giống như một vụ mưu hại.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Con người thèm muốn bất tử, nhưng chỉ có được thế phẩm của nó: khoảnh khắc cực khoái.” (Les Testaments trahis)
– “Những kẻ phung phí quàng xiên sự nhạy cảm của mình, sẽ không còn có được nó nữa khi cần đến.” (Jacques et son maître)
– “Mê muội vì cái tức thời, là mê muội vì cái lãng quên.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Tình cảm yêu đương đánh lừa tất cả chúng ta bằng một ảo tưởng hiểu biết.” (L’Immortalité)
– “Chính trị, ấy là thứ bọt bẩn trên mặt sông, trong khi trong thực tế đời sống của con sông diễn ra ở một tầng sâu hơn rất nhiều.” (La Valse aux adieux)
– “Mà nếu Lịch sử chỉ đùa bỡn?” (La Plaisanterie)
– “Sự thống nhất của nhân loại có nghĩa là: không ai còn thoát đi đâu được nữa.” (L’Art du roman)
– “Con người ta mới bất lực làm sao trước sự nịnh hót!” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Cho xuất bản những gì tác giả đã bỏ đi thì cũng là hành vi hiếp dâm giống như kiểm duyệt những gì ông ta quyết định giữ lại.” (Les Testaments trahis)
– “Không gì nhục hơn là không tìm được câu trả lời đau nhói cho một sự công kích đau nhói.” (La Lenteur)
– “Đàn bà không tìm đàn ông đẹp trai. Họ tìm người đàn ông đã có được những người đàn bà đẹp.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Khi ta giết những giấc mơ lớn máu chảy rất nhiều.” (La Vie est ailleurs)
– “Không gì nuốt trọn hết một con người bằng ghen tuông.” (La Valse aux adieux)
– “Nhà tiểu thuyết không phải là nhà sử học cũng không phải nhà tiên tri: ông là người khám phá cuộc tồn sinh.” (L’Art du roman)
– “Một sự kiện không bị mất giá vì tính chất ngẫu nhiên của nó, trái lại chính ngẫu nhiên đem lại cho nó vẻ đẹp, chất thơ.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Trong trò chơi ta không tự do, đối với người chơi trò chơi là một cạm bẫy.” (Risibles amours)
– “Tiểu thuyết phải phá hủy các xác tín.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Khoái nhất, là được cảm phục.” (La Valse aux adieux)
– “Ký ức về cái chán ngấy lớn hơn ký ức về cái dịu dàng!” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Cái đẹp là sự xóa bỏ tính niên đại và cuộc nổi dậy chống lại thời gian.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Ta không bao giờ biết được vì sao và về chuyện gì ta khiến những người khác bực dọc, vì chuyện gì ta khiến họ có cảm tình, cái gì khiến họ thấy ta lố bịch; đối với ta hình ảnh của ta là điều bí ẩn lớn nhất.” (L’Immortalité)
– “Cạm bẫy của hận thù, là nó buộc ta quá chặt với đối thủ của mình.” (L’Immortalité)
– “Chỉ sống được có mỗi một cuộc đời, thì cũng giống như không sống gì cả.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Bao giờ người ta cũng thèm muốn, hơn hết mọi thứ, cái không thể với tới được, một cách ham hố.” (La Plaisanterie)
– “Nỗi nhớ Thiên đường, là ham muốn của con người được đừng làm người.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Lý do tồn tại duy nhất của một cuốn tiểu thuyết là nói lên điều chỉ có tiểu thuyết mới nói được.” (L’Art du roman)
– “Tôn giáo và hài hước là không thể dung hợp.” (Les Testaments trahis)
– “Hiện tại, cái điểm vô hình ấy, cái hư vô bước chầm chậm về hướng cái chết ấy.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Phản bội, là bước ra khỏi hàng và đi vào vô định.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Những người tín đồ có một có một cảm quan sắc bén về việc dàn cảnh các phép lạ.” (La Valse aux adieux)
– “Cuộc sống không phải là những gì đã đi qua, cuộc sống là trường các khả thể của con người, tất cả những gì con người có thể trở thành, tất cả những gì anh ta có thể.” (L’Art du roman)
– “Ngọn nguồn của nỗi sợ là ở trong tương lai, người được giải phóng khỏi tương lai thì không có gì phải sợ cả.” (La Lenteur)
– “Có những cái nhìn cám dỗ không ai cưỡng lại: chẳng hạn nhìn một tai nạn giao thông hay một bức thư tình thuộc về người khác.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Không phải kẻ thù, mà bè bạn đẩy con người vào cô đơn.” (La Plaisanterie)
– “Nhiều người, ít ý tưởng, vậy làm sao chúng ta phân biệt lẫn nhau được đây?” (L’Immortalité)
– “Các số phận của con người được gắn kết lại với nhau bằng một chất xi-măng của minh triết.” (La Plaisanterie)
– “Có phải giễu nhại là số phận vĩnh cửu của con người?” (La Vie est ailleurs)
– “Nhà tiểu thuyết dạy người đọc của mình hiểu thế giới như là một câu hỏi.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Nhạy cảm, là huy động tối đa các giác quan: ta quan sát người khác một cách ráo riết và ta lắng nghe từng tiếng động nhỏ nơi họ.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Không gì khiến tôi kinh tởm bằng khi những con người kết thân với nhau vì mỗi người nhận ra ở người khác sự thấp hèn của chính mình.” (La Plaisanterie)
– “Con người không bao giờ có thể biết mình phải muốn gì bởi vì anh ta chỉ có một cuộc đời và anh ta không thể so sánh nó với những cuộc đời trước cũng không thể điều chỉnh nó trong những cuộc đời sau.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Người viết những cuốn sách là tất cả (một vũ trụ duy nhất đối với chính anh ta và với những người khác) hoặc chẳng là gì hết. Nhưng vì không bao giờ một người nào đó có thể là tất cả, tất cả chúng tôi những người viết các cuốn sách, chúng tôi chẳng là gì hết.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Người ta cứ nói về chuyện những cú sét đánh; còn tôi thì quá biết rằng tình yêu muốn sáng tạo ra một truyền thuyết về chính nó, huyền thoại hóa sau đó các cuộc khởi đầu của nó.” (La Plaisanterie)
– “Chuyện đời thì bao giờ vẫn thế: ta tưởng ta diễn vai của mình trong một vở kịch nào đó, và đâu có biết người ta đã lặng lẽ thay đổi cảnh trí sân khấu, cho đến nỗi, ta phải diễn trong một vở khác, mà nào có hay.” (Risibles amours)
– “Con người, do anh ta viết những cuốn sách, tự mình biến thành vũ trụ và đặc tính của một vũ trụ đích thị là đơn nhất. Sự tồn tại của một vũ trụ khác đe dọa nó đến tự trong chính bản thể của nó.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực, là cuộc đấu tranh của ký ức chống lại lãng quên.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Nếu ta phải chịu trách nhiệm về những điều ta có ý thức, thì đám ngu si được xá trước mọi lỗi lầm. Con người buộc phải biết. Con người có trách nhiệm về sự dốt nát của mình. Dốt nát là một tội lỗi.” (Risibles amours)
– “Không có hình phạt nào, kinh hãi nào hơn là biến một khoảnh khắc thành vĩnh hằng, rứt con người ra khỏi thời gian và chuyển động liên tục của nó.” (L’Immortalité)
– “Trong một thế giới được xây dựng trên những xác tín chí thánh, thì tiểu thuyết chết.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Văn hóa dựa trên cá nhân, truyền thông đại chúng đưa đến đồng phục; văn hóa soi sáng tính phức tạp của các sự vật, truyền thông đại chúng đơn giản hóa chúng.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Các nhà viết tiểu sử không biết cuộc sống tình dục của vợ mình, nhưng tưởng họ biết cuộc sống tình dục của Stendhal hay Faulkner.” (Les Testaments trahis)
– “Nỗi xấu hổ không cơ sở trên một lỗi lầm ta đã phạm phải, mà trên nỗi nhục ta cảm thấy vì đã trở thành kẻ ta không hề chọn, và cảm giác không thể chịu đựng rằng nỗi nhục ấy được nhìn thấy khắp nơi.” (L’Immortalité)
– “Cái nịt vú có chức năng đỡ lấy một vật gì đó nặng hơn dự đoán, mà trọng lượng đã bị tính sai, và sau đó phải chống đỡ như kiểu phải chống đỡ bằng các cây cột và cột ốp một cái ban công xây hỏng.” (L’Immortalité)
– “Ấn định hình thức cho một thời lượng, là đòi hỏi của cái đẹp mà cũng là đòi hỏi của ký ức.” (La Lenteur)
– “Văn hóa chỉ là một câu hỏi dài, truyền thông đại chúng là lời đáp nhanh cho mọi thứ; văn hóa là người canh giữ ký ức, truyền thông đại chúng là những thợ săn cái thời sự.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Sự bất tử duy nhất của chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong các hồ sơ lưu trữ của sở cảnh sát.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Mọi cái thần bí đều quá đáng.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Không gì đòi hỏi nỗ lực tư duy bằng biện luận nhằm biện hộ cho phi tư duy.” (L’Immortalité)
– “Con người ao ước một thế giới trong đó cái thiện và cái ác được phân biệt rõ ràng bởi vì tự trong họ vốn có một ham muốn bẩm sinh và không thể chế ngự phán xét trước khi hiểu.” (L’Art du roman)
– “Tùy theo cách trình bày nó ra, quá khứ của bất cứ ai trong chúng ta đều có thể trở thành tiểu sử của một người đứng đầu nhà nước cũng như tiểu sử một tên tội phạm.” (Risibles amours)
– “Không ai vô cảm bằng những người đa cảm.” (Les Testaments trahis)
– “Chúng ta sống ngày càng dấn sâu vào sự lãng quên con người. Lập lại sự nhạy cảm ấy với cuộc sống, sự quan tâm ấy đến các trùng khớp, cũng là một ý nghĩa của tiểu thuyết.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Nhảy trong một điệu nhảy vòng tròn thật là ma thuật; điệu nhảy vòng tròn nói với ta từ những chiều sâu nghìn năm của ký ức.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Cơn ghen có cái quyền năng kỳ lạ chiếu sáng con người duy nhất bằng những tia sáng mãnh liệt và giữ những người khác trong bóng tối hoàn toàn.” (La Valse aux adieux)
– “Tiểu thuyết là kết quả một ảo tưởng của con người. Ảo tưởng có thể hiểu người khác.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Tình dục, xét trên khía cạnh buôn bán, là một điều nhập nhằng bởi vì nếu mọi người đều thèm muốn cuộc sống tình dục, thì mọi người cũng ghét nó vì nó là nguyên nhân của những bất hạnh, những dằn vặt do không được thỏa mãn, những thèm khát, những mặc cảm, những đau khổ của mình.” (L’Identité)
– “Ít ra cũng cần có một điều tin chắc: tin chắc có thể làm chủ cái chết của mình và có thể chọn lấy giờ khắc và phương cách.” (La Valse aux adieux)
– “Tình dục không chỉ là ham muốn thể xác, mà, trong một mức độ cũng ngang bằng, là ham muốn danh dự. Một người bạn tình ta có được, gắn với ta và yêu ta, trở thành tấm gương soi của ta, thước đo tầm quan trọng và giá trị của ta.” (Risibles amours)
– “Kẻ ghét đàn bà không coi khinh những người đàn bà. Kẻ ghét đàn bà không thích nữ tính. Ở người đàn bà, kẻ say mê tôn thờ nữ tính, trong khi kẻ ghét đàn bà bao giờ cũng ưa người đàn bà hơn nữ tính.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Người đàn ông có quyền đòi hỏi bất cứ kỳ diều gì ở người phụ nữ, nhưng, nếu không muốn cư xử như kẻ thô lỗ, anh ta phải làm điều đó thế nào đó để người phụ nữ có thể hành động hòa hợp với những ảo tưởng sâu xa nhất của nàng.” (La Plaisanterie)
– “Cái cách người ta kể Lịch sử đương đại giống như một một cuộc hòa nhạc lớn trong đó người ta trình diễn liên tiếp một trăm ba mươi tám bản opus của Beethoven nhưng chỉ chơi tám nhịp đầu của mỗi bản.” (La Lenteur)
– “Người được yêu đến tuyệt đối thì không thể khốn khổ.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Chủ nghĩa trữ tình là một cơn say và con người say để dễ tự hòa mình hơn với thế giới.” (La Vie est ailleurs)
– “Hài hước: cơn say của tính tương đối của sự thể con người; niềm vui thú kỳ lạ bắt nguồn từ niềm xác tín rằng chẳng có xác tín nào cả.” (Les Testaments trahis)
– “Này đây là lý do tồn tại thật sự và duy nhất của tình bạn: tạo nên một tấm gương soi trong đó người kia có thể ngắm nhìn hình ảnh ngày xưa của mình mà, nếu không có những cuộc tán phét bất tận về những kỷ niệm giữa bè bạn, thì đã bị xóa mất từ lâu rồi.” (L’Identité)
– “Tình yêu là một câu hỏi không dứt.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Tình yêu cũng giống như các đế chế: ý tưởng trên đó chúng được dựng nên mà biến mất đi, thì chúng cũng tàn lụi theo.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Con người lâm vào bất hạnh đi tìm một niềm an ủi trong sự hỗn hợp nỗi khổ của mình với nỗi khổ của người khác.” (La Plaisanterie)
– “Những người độc đáo có một cuộc sống khá đẹp khi họ thành công trong việc khiến sự độc đáo của họ được tôn trọng.” (La Valse aux adieux)
– “Tiểu thuyết là một suy ngẫm về cuộc đời được nhìn qua những nhân vật tưởng tượng.” (L’Art du roman)
– “Những tài năng thật sự của nghệ thuật hài không phải là những người gây cười nhiều nhất, mà là những người phát hiện ra một khu vực chưa được biết của cái hài.” (L’Art du roman)
– “Âm nhạc là sự phủ định các câu, âm nhạc là phản-từ.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Quá nhiều chờ đợi hồi hộp trong một cuốn sách, và nó cứ lụi dần, lụi dần.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Trước khi biến mất hoàn toàn khỏi thế gian, cái đẹp còn tồn tại một vài khoảnh khắc, nhưng là tồn tại nhầm. Cái đẹp do nhầm, là kỳ cuối của lịch sử cái đẹp.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Để thoát khỏi đau đớn, thường hơn cả người ta ẩn trú vào tương lai. Trên dòng chảy thời gian, người ta tưởng tượng ra một đường vạch vượt qua đó đau đớn hiện tại sẽ không còn tồn tại.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Nếu có một điều khiến tôi muốn lộn mửa sâu sắc ở con người, thì đấy là nhìn thấy làm sao mà sự tàn ác, thấp hèn và đầu óc thiển cận của họ lại có thể mang cái mặt nạ của chủ nghĩa trữ tình như vậy.” (La Valse aux adieux)
– “Khi một người đàn bà không sống đủ được với cơ thể của mình, thì cuối cùng bà sẽ thấy cơ thể mình như một kẻ thù.” (La Vie est ailleurs)
– “Ý nghĩa của lịch sử một nghệ thuật là tương phản với ý nghĩa của Lịch sử thông thường. Do tính cách riêng tư của nó, lịch sử một nghệ thuật là một sự trả thù của con người đối với tính phi nhân cách của Lịch sử nhân loại.” (Les Testaments trahis)
– “Vẻ đẹp của một từ không nằm trong sự hài hòa về ngữ âm giữa các âm tiết của nó, mà trong sự kết hợp ngữ nghĩa học được âm vang của nó làm thức dậy.” (L’Art du roman)
– “Thượng đế đã khắc sâu vào trái tim đàn bà nỗi căm ghét những người đàn bà khác vì Người muốn loài người nhân bội lên.” (La Valse aux adieux)
– “Ta còn có thể đòi gì hơn nữa là được hạnh phúc một lúc?” (Jacques et son maître)
– “Cái hài hước chỉ có thể tồn tại ở nơi người ta còn nhận ra được ranh giới giữa cái gì là quan trọng cái gì là không. Ngày nay, ranh giới đó không thể nhận ra được nữa.” (L’Immortalité)
– “Một giá trị bị tổn hại và một ảo tưởng bị bóc trần đều có thân xác thảm hại như nhau, chúng giống nhau và không gì dễ hơn là nhầm lẫn chúng với nhau.” (La Plaisanterie)
– “Chúng ta viết sách vì con cái chúng ta chẳng quan tâm gì đến chúng ta. Chúng ta nói với thế giới vô danh vì vợ ta bịt ta lại khi ta nói với họ.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Một đức tin quá nồng cháy là kẻ đồng minh tệ hại nhất. Ta vừa quan tâm đích thị vào một chuyện gì, thì đức tin liền đẩy nó đến thành phi lý.” (Risibles amours)
– “Tình yêu không thể là buồn cười. Tình yêu chẳng có chút gì chung với cái cười.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Ve vãn tương lai là thói xu thời tệ hại nhất, là nịnh hót hèn hạ kẻ mạnh hơn. Bởi tương lai bao giờ cũng mạnh hơn hiện tại. Thật vậy, chính nó sẽ phán xét chúng ta. Và chắc chắn chẳng chút tinh thông nào.” (L’Art du roman)
– “Cũng giống như tình yêu khiến ta thấy người phụ nữ mình yêu đẹp hơn, nỗi lo âu trước một người phụ nữ đáng kinh sợ khiến mỗi chút khiếm khuyết trong đường nét của họ bỗng nổi cộm lên quá cỡ.” (La valse aux adieux)
– “Người muốn nhớ lại không được ở yên một chỗ và chờ các kỷ niệm tự nó đến với mình! Các kỷ niệm tản mác trong thế giới rộng lớn và ta phải đi để tìm chúng và buộc chúng ra khỏi nơi chúng ẩn nấp!” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Các tình nhân bao giờ cũng có một lối xử sự phi lô gích.” (La Lenteur)
– “Tiết tấu nguyên thủy nhọc nhằn của nhạc rock: nhịp đập của trái tim được nống to lên để không một phút giây nào con người quên cuộc đi của nó đến cái chết.” (L’Art du roman)
– “Sáng tác một cuốn tiểu thuyết là xếp cạnh nhau những không gian cảm xúc khác nhau, và đấy là nghệ thuật tinh tế nhất của một nhà tiểu thuyết.” (L’Art du roman)
– “Anh chàng trẻ tuổi chạy theo vinh quang chẳng có chút ý tưởng thế nào là vinh quang. Ta chẳng bao giờ biết được chút gì ý nghĩa cách xử thế của mình.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Giữa người đàn bà tự tin rằng mình là đơn nhất, và những người đàn bà khoác tấm vải liệm của số phận người nữ phổ quát, không thể có sự thỏa hiệp nào hết.” (La Valse aux adieux)
– “Con người, dù chính họ không thể sống mãi, lại không thể hình dung sự kết thúc của không gian, của thời gian, của lịch sử, cũng như của một dân tộc, họ luôn sống trong một cõi bất tận hão huyền.” (Le Livre du rire et de l’oubli)
– “Thời gian của con người không quay theo vòng tròn, mà chảy theo đường thẳng. Nên con người không thể hạnh phúc vì hạnh phúc là ham muốn lặp lại.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Đái vào tự nhiên là một nghi thức tín ngưỡng qua đó ta hứa với đất đai sẽ trở lại cùng đất, một ngày nào đó, trọn vẹn.” (Risibles amours)
– “Tiểu thuyết nảy sinh từ những say mê cá nhân của anh, song nó chỉ có thể thật sự cất cánh khi anh cắt đứt được cuốn dây rốn với cuộc sống của anh và bắt đầu hỏi không phải cuộc sống của anh mà là chính cuộc đời.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Thiên hướng của thơ không phải là làm cho ta bị chói lòa vì một tư tưởng đáng kinh ngạc, mà là khiến cho một khoảnh khắc của con người trở nên không thể quên và xứng đáng với một nỗi nhớ nhung không thể chống đỡ nổi.” (L’Immortalité)
– “Kẻ trả thù hôm nay sẽ trả thù ngày mai.” (La Lenteur)
– “Việc chết có cái ngữ nghĩa riêng của nó, và không phải là không hấp dẫn khi biết được một người tìm thấy chết theo cách nào, và trong yếu tố nào.” (La Vie est ailleurs)
– “Con người, không hay biết, sáng tạo cuộc đời mình theo những quy luật của cái đẹp ngay cả trong những khoảnh khắc tuyệt vọng nhất.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Tiểu thuyết là kẻ thù của tốc độ, cách đọc phải chậm rãi và người đọc phải nán lại dưới vẻ đẹp của một trang, một đoạn, ngay cả một câu.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Tình yêu bắt đầu vào khoảnh khắc một người phụ nữ bằng một lời nói được ghi khắc trong ký ức thơ mộng của ta.” (L’Insoutenable légèreté de l’être)
– “Tiểu thuyết đúng nghĩa có thể mang tính tranh biện bởi vì tham vọng sâu xa nhất của nó là khám phá các sự vật và phơi bày ra những gì được che giấu đằng sau các xác tín của ta và những gì ta vẫn hình dung.” (Trả lời phỏng vấn của Antoine de Gaudemar – tháng Hai, 1984)
– “Tình bạn cần cho ký ức của con người được vận hành tốt. Nhớ lại quá khứ của mình, luôn mang nó theo mình, có thể là điều kiện cần thiết để gìn giữ điều người ta thường gọi là sự toàn vẹn cái tôi của mình.” (L’Identité)
Nguồn:
https://vanviet.info/van/milan-kundera-tung-ni-2/
Kundera vào khoảng năm 1950. Khi còn trẻ, ông đã hai lần bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản, lần thứ hai vì ủng hộ cải cách. Ảnh: Abraham Pisarek / ullstein bild qua Getty Images
Kundera ở Pháp năm 1979. Ông định cư ở Paris năm 1975. Ảnh: Jean-Pierre Couderc/Roger-Viollet
Kundera, phải, và vợ ông, Vera, thứ hai từ trái sang, bên ngoài một nhà hàng ở Paris năm 2010. Ảnh: Bertrand Rindoff Petroff/Getty Images
Cuốn tiểu thuyết năm 1984 của Kundera được xuất bản ít nhất hai chục thứ tiếng
Other links:
https://en.wikipedia.org/wiki/Milan_Kundera
https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/milan-kundera-qua-doi-o-tuoi-94/
https://vanviet.info/van/milan-kundera-ngi-sao-van-hoc-czech-v-bi-khai-tru-khoi-dang-cong-san-qua-doi-o-tuoi-94/