Sunday, April 12, 2020

Trận Đại Dịch Này Sẽ Kết Thúc Thế Nào


Trận Đại Dịch Này Sẽ Kết Thúc Thế Nào --Nước Mỹ Có Thể Sẽ Đi Đến Hồi Kết Với Nạn Dịch Covid-19 Bùng Phát Tồi Tệ Nhất Trong Thế Giới Công Nghiệp.  Tình Hình Sắp Tới Sẽ Diễn Tiến Thế Nào.
Tác giả: Ed Yong*
Người dịch [nd] sang tiếng Việt: Nguyên Thuần
25/3/2020
Cách đây ba tháng không ai biết SARS-CoV-2 đã có mặt rồi.  Đến giờ vi khuẩn này đã lan tràn đến gần như mọi xứ sở, nhiễm bệnh cho 446,000 người như chúng ta biết, và còn nhiều người nữa đã bị nhiễm mà chúng ta không biết [tính đến ngày 11 tháng 4 đã có1,733,792 trường hợp nhiễm Covid-19, nd**].  Nó đã làm sụp đổ kinh tế, phá hỏng hệ thống y tế, khiến các bệnh viện chật kín bệnh nhân trong khi các nơi công cộng lại không một bóng người.  Nó bắt người ta phải làm việc cách xa nhau và tách họ khỏi bạn bè.  Nó đảo lộn xã hội hiện đại ở một quy mô mà trước đây đại đa số những người đang sống chưa bao giờ chứng kiến.  Chẳng bao lâu nữa hầu như mọi người ở Mỹ đều sẽ quen biết một người đã bị nhiễm. Giống như Thế chiến thứ hai hoặc cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, cơn dịch này đã hằn sâu vào não trạng của dân tộc Mỹ.
Một cơn dịch toàn cầu có quy mô như thế là điều không tránh được.  Trong những năm gần đây, hàng trăm chuyên gia y tế đã viết sách, báo cáo tường trình và đề xuất ý kiến cá nhân cảnh báo về khả năng xảy ra đại dịch.  Bill Gates đã từng nói cho những ai muốn lắng nghe, gồm cả 18 triệu người xem cuộc nói chuyện của ông do TED tổ chức.***  Năm 2018 tôi đã viết một bài đăng trên báo The Atlantic nói rằng nước Mỹ chưa sẵn sàng đối phó với một trận dịch cuối cùng sẽ xảy ra.  Hồi tháng mười Trung tâm An Ninh Y Tế Johns Hopkins đã diễn tập một cuộc chiến tranh trò chơi điện tử với tình huống một vi khuẩn corona mới càn quét khắp thế giới.  “Nếu xảy ra...thì sao?” đã trở thành “Bây giờ gì nữa đây?”
Thế thì bây giờ gì nữa đây?  Vào những giờ cuối cùng của ngày thứ tư [24 tháng 3, nd] vừa qua, mà giờ đây tưởng như đã là quá khứ xa xôi, tôi còn nói chuyện với người bạn gái đang mang thai, chỉ  vài hôm nữa sẽ đến ngày sanh.  Tôi nhận thấy rằng đứa nhỏ có thể là một trong những trẻ đầu tiên thuộc lớp trẻ sinh ra trong một xã hội đã bị Covid-19 thay đổi sâu xa.  Chúng tôi quyết định gọi đấy là thế hệ C.
Rồi chúng ta sẽ thấy, cuộc sống của thế hệ C được định hình bởi các lựa chọn người ta thực hiện trong những tuần lễ sắp đến, và bởi những mất mát hệ lụy từ các quyết định đó mà chúng ta phải gánh chịu.  Nhưng trước hết, xin ni qua về con số ước tính.  Dựa trên Chỉ Số An Ninh Y Tế Toàn Cầu, tức bảng tường trình chỉ số dùng để đánh giá các nước về việc nước đó chuẩn bị đối phó với dịch bệnh ra sao, nước Mỹ đạt 83.5, điểm cao nhất thế giới.  Giàu, mạnh, phát triển, Mỹ được cho là nước sẵn sàng nhất để đối phó trong tất cả các quốc gia.  Ảo tưởng đó nay đã vỡ tan tành.  Mặc dù nhiều tháng trước đã có khuyến cáo vào lúc con vi khuẩn đang lan tràn ở các quốc gia khác, đến khi nước Mỹ cuối cùng bị COVID-19 thử sức, nước này đã thất bại.
Nahid Bhadelia, một bác sĩ chuyên về bệnh truyền nhiễm tại trường Y khoa thuộc đại học Boston nói: “Trong mọi tình huống, vi khuẩn [như vi khuẩn SARS-CoV-2] đều trắc nghiệm tính dẻo dai bền bỉ của ngay cả những hệ thống y tế được trang bị tốt nhất.” Dễ lây lan và có thể làm chết người hơn bệnh cúm theo mùa thông thường, vi khuẩn corona mới này còn lẩn khuất khó thấy, phát tán từ người bệnh sang người khác nhiều ngày trước khi triệu chứng hiện ra rõ rệt.  Để khống chế lại mầm bệnh như thế, các quốc gia phải có cách thử nghiệm và dùng cách đó để xác định danh tính người nào mắc bệnh, cô lập họ, và theo dõi những ai họ đã tiếp xúc.  Đó là điều Nam Hàn, Singapore, và Hồng kông đã làm được với hiệu quả to lớn.  Đó lại là điều nước Mỹ đã không làm.
Như các đồng nghiệp của tôi Alexis Madrigal và Robinson Meyer tường thuật, Trung tâm Phòng Chống Dịch Bệnh [gọi tắt là CDC, nd] đặt ra và phân phối một cách thử nghiệm sai lầm hồi tháng hai.  Những phòng thí nghiệm độc lập đã tạo ra các cách thử khác, nhưng lại bị sa lầy trong tệ quan liêu của cơ quan Quản Lý Thực Phẩm và Dược phẩm Hoa kỳ [gọi tắt là FDA, nd]. Trong một tháng quyết định, khi số người nhiễm bệnh tại Mỹ vọt lên đến số chục ngàn, chỉ có vài trăm người được thử nghiệm mà thôi. Nói thẳng thừng, thật không thể tưởng tượng nổi việc một nước mạnh về y sinh như Mỹ lại có thể hoàn toàn thất bại trong việc tạo ra một thử nghiệm thật đơn giản để chẩn đoán bệnh.  Alexandra Phelan, một người chuyên về các vấn đề pháp luật và chính sách liên quan đến bệnh truyền nhiễm tại đại học Georgetown nói: “Tôi không biết bất cứ một mô phỏng trên máy điện toán nào do tôi và những người khác thực hiện lại có chuyện bị chúng tôi xem là thất bại trong thử nghiệm.” 
Thảm bại về thử nghiệm là tội lỗi gốc của việc Mỹ thua trong trận chiến chống dịch này, một lỗi duy nhất này thôi đã làm suy sụp mọi biện pháp chống đỡ khác.  Giá như Mỹ đã theo dõi chính xác sự lây lan của vi khuẩn này, các bệnh viện đã có thể thực thi các kế hoạch chống dịch bệnh của mình, khoanh vùng bằng cách sắp xếp phòng điều trị, đặt mua thêm trang bị y tế, thay ca nhân viên trực, hoặc ấn định cơ sở vật chất cụ thể để đối phó các trường hợp bệnh Covid-19.  Những chuyện như thế đã không xảy ra.  Thay vào đó, hệ thống y tế gần như đã làm việc hết mức, và đã bị thách thức bởi dịch cúm nặng mùa đông rồi, đột ngột phải đối đầu với một thứ vi khuẩn được để tự do tung hoành, không theo dõi được, trong các cộng đồng trên toàn nước Mỹ.  Các bệnh viện quá sức giờ trở thành quá tải.  Trang bị phòng hộ cơ bản như khẩu trang, áo khoác, găng tay bắt đầu cạn dần.  Chẳng bao lâu nữa sẽ hết giường nằm, hết máy trợ thở dùng để cung cấp dưỡng khí cho phổi của người bệnh đang bị con vi khuẩn bao vây.
Gần hết chỗ để ngoi lên khỏi cơn khủng hoảng, hệ thống y tế Mỹ hoạt động trong tư thế cho rằng, trong trường hợp khẩn cấp, các tiểu bang không bị nạn dịch có thể giúp cho những tiểu bang đã bị lâm nguy.  Nguyên tắc đạo đức đó quả là có kết quả đối với những thảm họa ở địa phương như bão tố hoặc nạn cháy rừng, nhưng không thể dùng được đối với một trận đại dịch hiện đang xảy ra khắp 50 tiểu bang.  Thay vì hợp tác, các tiểu bang cạnh tranh lẫn nhau; một số  lo lắng khi các bệnh viện mua trang bị với số lượng lớn, giống kiểu người tiêu thụ hoảng sợ đi mua hết giấy vệ sinh.   
Một phần là vì Tòa Bạch Ốc là một thành phố ma không có bóng chuyên gia khoa học nào.  Một văn phòng chuẩn bị đối phó với đại dịch vốn là một phần thuộc Ủy Ban An Ninh Quốc Gia đã bị giải tán năm 2018.  Ngày 28 tháng giêng, Luciana Borio, một thành viên trong đội ngũ đó, đã thúc hối chính phủ hãy “hành động ngay bây giờ để ngăn chặn một trận dịch tại Mỹ,” cụ thể làm việc với khu vực tư nhân nhằm chế ra các thử nghiệm chẩn đoán dễ dàng và nhanh chóng.  Nhưng vì văn phòng ấy bị đóng, những lời cảnh báo đó chỉ đăng trong báo The Wall Street Journal, chứ không đến được tai tổng thống.  Thay vì bắt tay vào hành động,  nước Mỹ vẫn bình chân như vại.
Không người lèo lái, mù quáng, lừng khừng, và thiếu sự hợp tác, Mỹ đã xử lý tồi tệ cơn khủng hoảng Covid-19 đến mức độ tệ hại hơn nhiều so với điều mà tất cả các chuyên gia y tế tôi từng nói chuyện đã lo sợ.  Ron Klain, người điều phối việc Mỹ tiếp ứng trong cơn dịch Ebola xảy ra tại Tây Phi năm 2014, đã nói: “Tệ hơn nhiều.”  Lauren Sauer, người chuyên lo việc chuẩn bị đối phó với tai họa tại trường Y Khoa đại học Johns Hopkins, cho là “Vượt ngoài những gì chúng tôi nghĩ sẽ xảy ra.” Seth Berkley, người đứng đầu GAVI [tổ chức liên hữu y tế công tư toàn cầu chuyên về thuốc chủng ngừa, mục đích nhằm giúp dân các nước nghèo trên thế giới có thể được chủng ngừa để miễn dịch bệnh, nd], nói: “Là một người Mỹ, tôi kinh hoàng.  Nước Mỹ có thể đi đến tình trạng bùng phát dịch tệ hại nhất trong thế giới công nghiệp.”
1.Những Tháng Sắp Đến
Đã bị bỏ lại đằng sau, Mỹ sẽ khó lòng bắt kịp các nước khác, nhưng không phải Mỹ không thể đuổi kịp được.  Trong một chừng mực nào đó, người ta có thể xác định một tương lai gần, vì COVID-19 là một căn bệnh chậm và kéo dài.  Những người bị nhiễm bệnh nhiều ngày trước giờ mới bắt đầu lộ triệu chứng, mặc dù họ đã tự cô lập trong suốt thời gian đó.  Một số người như thế sẽ đi vào khu chăm sóc đặc biệt vào đầu tháng tư.  Cho đến cuối tuần vừa qua, nước này đã có 17,000 ca nhiễm, nhưng con số thật sự có thể nằm trong khoảng 60,000 đến 245,000.  Các con số giờ đang bắt đầu tăng cấp số nhân.  Cho đến sáng thứ tư [25 tháng 3, nd], con số được đếm chính thức là 54,000 trường hợp nhiễm bệnh, nhưng người ta không biết số người thực sự nhiễm là bao nhiêu.  Nhân viên y tế hiện đã nhìn thấy các dấu hiệu đáng lo ngại: trang bị cạn dần, số bệnh nhân ngày càng tăng, cả bác sĩ và y tá cũng đã có người bị nhiễm. 
Nước Ý và Tây ban nha cho nước Mỹ những cảnh báo không sáng sủa về tương lai.  Các bệnh viện hết chỗ, hết trang bị và thiếu nhân viên.  Không thể trị hay cứu mọi người, bác sĩ buộc phải làm điều không ai dám nghĩ: dành sự chăm sóc cho những bệnh nhân nào có thể sống được, trong khi chấp nhận để người khác chết.  Tính theo đầu người, Mỹ có ít giường bệnh hơn nước Ý.  Một công trình nghiên cứu của các khoa học gia thuộc đại học Hoàng gia Luân đôn đã kết luận rằng nếu không ngăn chặn được trận đại dịch, đến cuối tháng tư, sẽ không còn giường bệnh nào trống.  Và trước cuối tháng sáu, cứ mỗi giường dành cho trường hợp bệnh nặng, sẽ có khoảng 15 bệnh nhân COVID-19 cần đến một giường như vậy.  Đến cuối hè, đại dịch sẽ cướp mạng 2.2 triệu người Mỹ, đó là chưa kể số người bị chết một cách gián tiếp vì bệnh viện không thể chăm sóc cho những ca bị các bệnh thường thấy như trụy tim, đột quỵ, hay tai nạn lưu thông.  Đây là kịch bản tồi tệ nhất.  Để ngăn chặn tình trạng đó xảy ra, bốn điều dưới đây cần phải xảy ra, và phải xảy ra nhanh.            
Điều đầu tiên và quan trọng nhất là mau chóng sản xuất khẩu trang, găng tay, và những thiết bị bảo vệ cá nhân khác.  Nếu nhân viên y tế không có sức khoẻ, mọi đáp ứng còn lại đều sụp đổ.  Ở một số nơi, nguồn cung ứng đã quá chậm chạp đến nỗi các bác sĩ phải tái sử dụng khẩu trang khi khám từ người này qua người kia, phải kêu gọi dân chúng hiến tặng trang bị, hoặc tự may tại nhà.  Sự thiếu hụt này xảy ra vì các trang bị y tế thường được làm theo đơn đặt hàng và lệ thuộc vào chuỗi cung ứng quốc tế với các thủ tục hành chính nhiêu khê phức tạp mà hiện tại đã quá căng thẳng và gần sụp đổ.  Tỉnh Hồ bắc ở Trung quốc, một tâm điểm của trận dịch, từng là trung tâm sản xuất khẩu trang y tế.
Tại Mỹ, Kho Dự Trữ Chiến Lược Quốc Gia – nơi chứa trang bị y tế cho cả quốc gia Mỹ — đã được trưng dụng, đặc biệt dành cho các tiểu bang bị nặng nhất.  Kho này không có đủ để cung ứng mãi, nhưng nó có thể giúp cầm hơi trong một thời gian.  Donald Trump có thể dùng thời gian đó để dựa vào Sắc Luật Sản Xuất Quốc Phòng, kêu gọi các nhà sản xuất Mỹ hãy nỗ lực như thời chiến chuyển sang sản xuất các trang bị y tế.  Nhưng sau khi nói đến sắc luật ấy ngày thứ tư vừa qua [25 tháng 3, nd], Trump lại thất bại khi thực thi sắc luật vì Phòng Thương Mại Hoa kỳ và người đứng đầu các công ty chính vận động hành lang, như báo cáo cho biết.
Một số nhà sản xuất đã đáp ứng trước cơn thử thách, nhưng nỗ lực của họ chỉ chút ít và phân phối không đồng đều.  Ali Khan, Khoa trưởng Khoa Y tế công cộng thuộc Trung tâm Y khoa đại học Nebraska nói: “Rồi sẽ có ngày chúng ta tỉnh dậy nghe tin các bác sĩ tại thành phố X mổ mà phải đeo khăn [bandanas, nd] trong khi ở thàng phố Y kệ tủ chất đầy khẩu trang.” Thomas Inglesby thuộc trường Y tế công cộng Bloomberg, đại học Johns Hopkins nói: “Cần có một chiến dịch hậu cần và chuỗi cung ứng quy mô cho toàn quốc.”  Điều này các nhóm nhỏ thiếu kinh nghiệm rải rác khắp tòa Bạch Ốc không thể làm được.  Thomas Inglesby nói giải pháp là trao nhiệm vụ cho Cơ quan Hậu Cần Quốc Phòng –đơn vị 26,000 người này chăm lo hậu cần cho quân đội Mỹ trong các chiến dịch ở nước ngoài và đã từng trợ giúp trong các cuộc khủng hoảng y tế công cộng trước đây, kể cả trận dịch Ebola năm 2014.
Cơ quan này cũng có thể điều phối nhu cầu khẩn thiết thứ hai: tiến hành thử Covid-19 rộng khắp.  Lâu nay những thử nghiệm như vậy đến rất chậm do năm thiếu hụt riêng biệt sau đây: thiếu khẩu trang để bảo vệ nhân viên giúp thử nghiệm; thiếu que thử vùng xoang mũi nối với khí quản [nasopharyngeal, “vùng tỵ hầu,” nd] để lấy mẫu vi khuẩn; thiếu bộ dụng cụ để trích phần chứa yếu tố di truyền của vi khuẩn ra khỏi các mẫu thử nghiệm đã thu thập được; thiếu chất hóa học dùng để thử—vốn là một phần của bộ thử nghiệm; và thiếu nhân viên được huấn luyện có khả năng giúp thử nghiệm.  Một lần nữa, các thiếu hụt này cũng do chuỗi cung ứng hiện đã quá căng thẳng.  Nước Mỹ dựa vào ba công ty sản xuất hóa chất dùng để thử nghiệm, đủ để cung ứng trong trường hợp một trong ba công ty không sản xuất được—nhưng cả ba dều không đáp ứng nổi tình trạng toàn thế giới đang cần kíp chưa từng có trước đây.   Trong khi đó, Lombardy, nước Ý, nơi bị dịch bệnh nặng nhất tại Âu châu, là nơi có một trong số những công ty sản xuất que thử nghiệm tỵ hầu lớn nhất. 
Một số thiếu thốn đã được đưa ra bàn luận.  Cơ quan Quản lý Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ hiện đang nhanh chóng cho phép dùng những bộ thử nghiệm do các phòng thí nghiệm tư nhân chế tạo ra.  Có ít nhất một bộ thử nghiệm có thể cho biết kết quả trong không đầy một tiếng đồng hồ, với tiềm năng cho phép bác sĩ biết bệnh nhân trước mặt họ có mắc bệnh Covid-19 chăng.  Nước Mỹ, theo lời Kelly Wroblewski thuộc Hiệp hội Các Phòng Thí Nghiệm Y Tế Công Cộng, “đang tăng cường khả năng chống dịch từng ngày một.”
Vào ngày 6 tháng ba Trump tuyên bố “bất cứ ai muốn thử nghiệm đều có thể được thử nghiệm.”  Lời tuyên bố đó đã (và hiện nay) vẫn không đúng sự thật, và các quan chức của chính tổng thống đã nhanh chóng sửa sai giùm ông.  Dù vậy, những người lo ngại vẫn đổ xô đến bệnh viện tìm cách được thử nghiệm dù không có.  Saskia Popescu, người làm công tác chuẩn bị cho các bệnh viện đối phó với các trận đại dịch thuộc đai học George Mason, nói: “Người dân muốn được thử mặc dù họ không có triệu chứng gì, hay dù họ phải ngồi cạnh một người đang bị ho.” Những người khác chỉ bị cảm, nhưng bác sĩ vẫn phải dùng khẩu trang khi khám họ, làm tốn hao thêm trang bị y tế đang cạn dần. Popescu nói: “Hệ thống y tế thật sự bị căng thẳng.”  Ngay bây giờ, khi khả năng đối phó được tăng cường, thử nghiệm vẫn phải được sử dụng một cách kỹ lưỡng.  Marc Lipsitch thuộc đại học Harvard nói ưu tiên số một là thử nghiệm cho nhân viên y tế và những bệnh nhân đã nhập viện, nhằm giúp bệnh viện chặn đứng các đám cháy đang diễn ra.  Chỉ sau đó, khi cuộc khủng hoảng ngay trước mắt đã được làm chậm lại, khi ấy mới nên cho thử nghiệm rộng rãi hơn. Inglesby nói: “Đây không phải chỉ là chuyện ‘hãy cho thử nghiệm đã’!”
Những biện pháp này cần có thời gian, trong khi đó cơn đại dịch hoặc sẽ tăng tốc vượt ngoài khả năng hệ thống y tế hoặc sẽ giảm xuống đến mức có thể kềm chế.  Đường đi của vi khuẩn này –và số phận nước Mỹ—giờ đây tùy thuộc vào nhu cầu thứ ba, đó là khoảng cách giao tiếp xã hội [social distancing, nd].  Bạn hãy nghĩ như vầy: Chỉ có hai nhóm người Mỹ.  Nhóm A gồm tất cả những ai có dính líu đến việc đáp ứng y tế, như trị người bệnh, xét nghiệm hay sản xuất trang bị y tế.  Nhóm B gồm những người còn lại, và nhiệm vụ của họ là giúp cho Nhóm A có thì giờ xoay sở.  Bây giờ Nhóm B phải làm cho “đường cong biểu đồ dãn ra” [“flatten the curve,”**** xem chú thích cuối bài, nd] bằng cách tự cách ly mình khỏi người khác để cắt đứt chuỗi truyền bệnh. Trong tình hình bệnh Covid-19 bộc phát chậm, để ngăn chặn trước việc hệ thống y tế sụp đổ trong tương lai, chúng ta phải xúc tiến ngay tức khắc các bước có vẻ cứng rắn, cực đoan này, trước cả khi các biện pháp này tưởng như tương xứng với diễn tiến dịch bệnh, và chúng phải được tiếp tục trong nhiều tuần lễ.
Thuyết phục một quốc gia tự nguyện ở nhà không phải dễ, và khi không có hướng dẫn rõ ràng từ Tòa Bạch Ồc, các thị trưởng, thống đốc, và chủ doanh nghiệp buộc phải tự thực hiện các bước của mình.  Một số tiểu bang cấm tụ tập đông người hoặc đóng cửa trường học, quán ăn.  Có ít nhất  21 tiểu bang đã ban hành lịnh bắt buộc người dân phải cô lập dưới một hình thức nào đó, buộc người ta phải ở nhà.  Vậy mà nhiều người dân vẫn tiếp tục tụ tập ở những nơi công cộng.
Trong những thời điểm như thế này, khi điều tốt đẹp cho tất cả tùy thuộc vào sự hy sinh của nhiều người, phối hợp làm việc với nhau đâu ra đó là quan trọng –đấy là nhu cầu khẩn cấp thứ tư.  Tầm quan trọng của việc giãn cách xã hội phải được nhấn mạnh với quần chúng, những người còn phải được trấn an và giúp có đủ thông tin.  Thay vì thế, Trump cứ tiếp tục xem nhẹ vấn đề, nói với nước Mỹ là “chúng ta kiểm soát bệnh dịch rất tốt” trong khi thực sự không phải thế, và cho rằng các ca bệnh “sẽ giảm xuống gần đến số zero” trong khi con số đang tăng dần.  Trong một vài trường hợp, như những tuyên bố của Trump về việc thử nghiệm đại trà, những lỗi dẫn đến sai lệch của ông ta đã làm cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng.  Trump còn quảng bá cho các loại thuốc trị không được chứng nghiệm lâm sàng.
Khi ra khỏi phòng họp báo của Tòa Bạch Ồc, Trump có vẻ lắng tai nghe Anthony Fauci, giám đốc Viện Dị Ứng và Bệnh Truyền Nhiễm Quốc Gia.  Từ thời Ronald Reagan đến giờ, Fauci từng là cố vấn cho các tổng thống về các dịch bệnh mới, và hiện ông đang có chân trong đội ngũ đặc nhiệm chống Covid-19 cứ cách một ngày lại họp với Trump một lần.  Fauci nói với tôi: “Tổng thống có cách của ông ta, chúng ta hãy để nguyên như vậy, nhưng cho đến giờ những gì tôi đề nghị, về cơ bản, ông ta đều lắng nghe hết.”
Nhưng Trump đã có vẻ ngập ngừng.  Trong mấy ngày gần đây, có những dấu hiệu cho thấy ông ta đang chuẩn bị xem xét lại chính sách về giãn cách xã hội nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ nền kinh tế.  Các chuyên gia và giới lãnh đạo doanh nghiệp đã từng dùng cách nói khéo léo tương tự khi lý luận rằng những người có khả năng nhiễm bệnh cao như người già chẳng hạn, có thể được bảo vệ, trong khi những người khó nhiễm bệnh hơn được phép trở lại làm việc.  Lối suy nghĩ như vậy rất hấp dẫn, nhưng lại sai.  Nó đã quá đề cao khả năng của chúng ta khi đánh giá tầm mức rủi ro nhiễm bệnh của con người, và một cách nào đó đã tách biệt những người “có nguy cơ nhiễm cao” ra khỏi số người còn lại trong xã hội.  Nó đánh giá thấp việc vi khuẩn này có thể tấn công mạnh vào các nhóm người “khó bị nhiễm,” và việc các bệnh viện sẽ hoàn toàn bị quá tải nếu ngay cả số dân trẻ hơn một chút nhiễm bệnh. 
Một phân tích mới đây của đại học Pennsylvania ước lượng rằng ngay cả khi các biện pháp giãn cách xã hội có thể giúp giảm tỉ lệ nhiễm bệnh được 95% đi nữa, thì vẫn có đến 960,000 người Mỹ cần được chăm sóc đặc biệt.  Chỉ có khoảng 180,000 máy trợ thở ở Mỹ và, sát với thực tế hơn nữa, chỉ có đủ nhân viên điều dưỡng chuyên về hô hấp và chuyên về chăm sóc đặc biệt để chăm sóc an toàn cho 100,000 bệnh nhân thở bằng máy.  Giở bỏ lệnh giãn cách xã hội là điều ngu xuẩn.  Ngay bây giờ, khi việc thử nghiệm và trang bị phòng hộ vẫn còn đang khan hiếm, nếu giở bỏ lệnh ấy sẽ gây đại họa.
Nếu Trump vẫn giữ lệnh đó, nếu người dân Mỹ tuân thủ lệnh giãn cách xã hội, nếu thử nghiệm được tiến hành và khẩu trang được sản xuất đầy đủ, nước Mỹ vẫn còn có cơ hội ngăn chặn được dự đoán tồi tệ nhất về dịch Covid-19, hay chí ít cũng tạm thời khống chế được cơn dịch.  Không ai biết được con dịch sẽ kéo dài bao lâu, nhưng nó sẽ không mau chóng.  Fauci nói: “Nó có thể kéo dài từ bốn đến sáu tuần cho đến ba tháng, nhưng tôi không dám cả quyết khi nói thế.”   
2.Màn Cuối
Ngay cả đối phó hoàn hảo nhất cũng không kết thúc đại dịch được.  Chừng nào con vi khuẩn còn sống ở đâu đó, vẫn còn có thể xảy ra trường hợp một du khách nhiễm bệnh châm mồi lửa mới tại các quốc gia đã dập tắt hết các đám cháy.  Điều này đã xảy ra tại Trung quốc, Singapore, và những xứ khác ở Á châu, những nơi dường như khống chế được vi khuẩn trong một thời gian ngắn.  Với các điều kiện như vậy, đại dịch có thể kết thúc theo ba cách: Cách thứ nhất rất khó xảy ra, cách thứ hai rất nguy hiểm, và cách thứ ba rất kéo dài.
Cách thứ nhất là mọi quốc gia đều đồng loạt quản chế được con vi khuẩn, như trong trường hợp dịch SARS gốc của vi khuẩn corona năm 2003. Với tình trạng lan tràn của trận đại dịch do vi khuẩn corona gây ra và nhiều quốc gia đang khốn đốn hiện nay, khả năng xảy ra việc các nước đồng loạt khống chế vi khuẩn này có vẻ nhỏ đến mức hầu như không có.
Cách thứ hai, vi khuẩn này sẽ làm điều các vi khuẩn từng làm trong các trấn đại dịch trước đây.  Nó sẽ bùng phát lây lan khắp thế giới, để lại đủ số người sống sót đã miễn nhiễm đến mức cuối cùng nó gặp phải khó khăn tìm không ra người khả dĩ để gây nhiễm nữa.  Tình huống “miễn nhiễm bầy đàn” [herd immunity,”nd] này sẽ diễn ra nhanh, và vì thế nghe hấp dẫn.  Nhưng nó cũng sẽ xảy ra với cái giá khủng khiếp: SARS-CoV-2 [tức Covid-19, nd] lây lan nhanh chóng và gây chết người nhiều hơn cúm mùa, và nó cũng có thể sẽ để lại nhiều triệu xác người cùng tàn tích của những hệ thống y tế đã sụp đổ.  Nước Anh thoạt đầu tưởng đã có thể dựa vào chiến thuật “miễn nhiễm bầy đàn” này trước khi rút lại không theo nữa khi các mô hình [lý thuyết dùng toán để tiên liệu diễn tiến dịch lan tràn, nd] cho thấy hậu quả trầm trọng của phương cách này.  Nước Mỹ giờ đây cũng có vẻ đang tính áp dụng nó.
Tình huống thứ ba là thế giới chơi màn hở đâu đánh đó lâu dài với con vi khuẩn, hễ chỗ nào có dịch thì diệt nó cho đến khi sản xuất được thuốc ngừa.  Đây là lựa chọn tốt nhất, nhưng cũng là cách kéo dài và phức tạp nhất.
Mọi chuyện đều bắt đầu từ chỗ chế ra thuốc ngừa.  Giả như đây là một đại dịch cúm, thì chuyện sẽ dễ dàng hơn.  Thế giới đã có kinh nghiệm chế tạo thuốc ngừa dịch cúm và mỗi năm đều cho chủng ngừa.  Nhưng hiện giờ không có thuốc ngừa nào chống lại vi khuẩn corona –cho đến giờ, các vi khuẩn này dường như chỉ gây bệnh nhẹ và hiếm –vì thế các nhà nghiên cứu phải bào chế thuốc ngừa từ con số không.  Những bước đầu tiên đã diễn ra nhanh chóng rất ấn tượng.  Thứ hai [23 tháng 3, nd] vừa qua, một loại thuốc ngừa có thể dùng do công ty Moderna và Viện Y tế Quốc Gia bào chế đã được sớm đưa vào thử nghiệm lâm sàng.  Đó là mốc đánh dấu khoảng thời gian 63 ngày từ khi các nhà khoa học lần đầu tiên lấy được mẫu mã di truyền của vi khuẩn này cho đến khi các bác sĩ tiêm thuốc ngừa được thử nghiệm vào cánh tay người.  Fauci nói: “Đây là một kỷ lục thế giới rất ngoạn mục.”  
Nhưng đây cũng là bước nhanh nhất trong số nhiều bước chậm sau đó.  Việc thử nghiệm trên người đầu tiên sẽ cho các khoa học gia biết thuốc ngừa ấy có an toàn chăng, và có thật sự tác dụng vào hệ miễn nhiễm không.  Khi ấy các khoa học gia lại cần phải thử nghiệm xem nó có thật sự giúp ngừa nhiễm bệnh SARS-CoV-2 không.  Họ sẽ cần phải thử nghiệm trên thú vật và thử nghiệm lâm sàng trên quy mô lớn để chắc chắn rằng thuốc ngừa không gây biến chứng nghiêm trọng.  Họ còn phải tìm hiểu xem liều thuốc cần là bao nhiêu, con người cần tiêm bao nhiêu lần, xem thuốc ngừa ấy có tác dụng cho người già hay chăng, cũng như xem nó có đòi hỏi phải dùng thêm các hóa chất nào khác để tăng cường hiệu quả không.   
Seth Berkley thuộc tổ chức GAVI nói: “Cho dù thuốc ngừa có tác dụng, người ta cũng không dễ gì sản xuất nó ở quy mô thật lớn.”  Lý do là Moderna đã dùng một cách tiếp cận mới đối với việc chủng ngừa.  Những thuốc ngừa hiện có kích hoạt bằng cách cung cấp cho cơ thể những con vi khuẩn chết hoặc đã bị làm vụn ra, cho phép hệ miễn nhiễm chuẩn bị phòng thủ trước.  Ngược lại, thuốc ngừa của Moderna gồm một mảnh nhỏ trích từ RNA [Ribonucleic acid (RNA), a polymeric molecule essential in various biological roles in coding, decoding, regulation and expression of genes. Wiki] của SARS-CoV-2.  Nghĩa là cơ thể có thể dùng mảnh nhỏ này để tạo nên những mảnh vụn của con vi khuẩn cho chính cơ thể, từ đó hình thành cơ sở giúp cho hệ miễn nhiễm phòng bị.  Phương cách này đã làm được nơi thú vật, nhưng với con người thì chưa được chứng minh.  Mặt khác, các khoa học gia Pháp đang cố gắng thay đổi thuốc ngừa bệnh sởi hiện có bằng cách dùng các mảnh vụn của vi khuẩn corona mới.  Berkley nói: “Điểm thuận lợi của phương pháp này là nếu ngày mai chúng ta cần đến hàng trăm liều thuốc ngừa, rất nhiều nhà máy trên thế giới đã biết cách sản xuất ra thứ thuốc ngừa như thế.” Phương cách chế tạo nào nhanh hơn đều không thành vấn đề, Berkley cùng các nhà khoa học khác đều ước lượng sẽ phải mất từ 12 đến 18 tháng mới có thuốc ngừa khả dĩ dùng được, và rồi còn phải sản xuất, chuyên chở thuốc đến chích cho người.
Như vậy có thể vi khuẩn này sẽ còn dây dưa theo đời sống người Mỹ thêm ít nhất là một năm hoặc lâu hơn nữa.  Nếu biện pháp giãn cách xã hội hiện áp dụng có hiệu quả, thì cơn đại dịch có thể giảm đi một chút để mọi việc trở lại nhịp sống gần như bình thường.  Các văn phòng có thể đầy người làm việc và quán bar sẽ nhộn nhịp trở lại.  Trường học có thể mở cửa và bạn bè được gặp nhau.  Nhưng khi tình hình trở lại như cũ thì con vi khuẩn cũng sẽ xuất hiện lại.  Điều này không có nghĩa  xã hội phải tiếp tục đóng cửa mãi đến năm 2022. Nhưng như Stephen Kissler thuộc đại học Harvard nói, “chúng ta cần chuẩn bị phải trải qua nhiều đợt giãn cách xã hội nữa.” 
Trong những năm sắp đến, nhiều vấn đề, gồm cả việc các xáo trộn xã hội thường xảy ra như thế nào, kéo dài bao lâu và vào thời điểm nào, đều tùy thuộc hai đặc tính của vi khuẩn này mà hiện giờ người ta không biết gì về cả hai đặc tính đó.  Đặc tính thứ nhất: mùa nào nó sẽ hoành hành [đặc tính mùa của vi khuẩn, nd].  Các vi khuẩn corona thường gây bệnh vào mùa đông, sau đó nó suy giảm rồi biến mất vào mùa hè.  Điều này cũng có thể đúng với SARS-CoV-2, nhưng những biến thái theo mùa có thể không đủ để làm chậm lại con vi khuẩn khi có quá nhiều người với hệ miễn nhiễm còn non yếu để vi khuẩn gây nhiễm bệnh.  Maia Majumder làm việc tại trường Y khoa đại học Harvard và bệnh viện Nhi đồng Boston nói: “Nhiều nước trên thế giới đang lo âu chờ đợi xem chuyện gì, nếu có, sẽ xảy ra cho việc lây lan bệnh tại Bắc bán cầu khi mùa hè đến.”
Đặc tính thứ hai: miễn nhiễm với Covid-19 kéo dài bao lâu.  Khi con người nhiễm bệnh do các vi khuẩn corona nhẹ hơn gây ra với các triệu chứng giống như bệnh cảm, người bệnh miễn nhiễm với vi khuẩn ấy trong  vòng không đầy một năm.  Ngược lại, số ít người bệnh do vi khuẩn SARS gốc gây ra, một bệnh trầm trọng hơn, đã có thể miễn nhiễm với vi khuẩn ấy lâu hơn nhiều.  Giả như vi khuẩn SARS-CoV-2 nằm giữa hai nhóm này [nhóm vi khuẩn corona nhẹ thông thường và nhóm SARS gốc, nd], những người đã phục hồi sau khi nhiễm Covid-19 có thể miễn nhiễm trong vòng một hai năm.  Để khẳng định điều này, các khoa học gia sẽ cần phải tạo ra những thử nghiệm chính xác dùng huyết thanh để xem có kháng thể trong máu hay không, ngõ hầu chứng tỏ có miễn nhiễm.  Họ cũng sẽ cần phải khẳng định rằng những kháng thể ấy thực sự có ngăn chặn con người không nhiễm hoặc gây lây bệnh Covid-19.  Nếu được vậy, người dân mới có thể trở lại làm việc, chăm sóc cho người già yếu, và là chỗ dựa chắc chắn cho nền kinh tế qua những đợt phải giãn cách xã hội.    
Các khoa học gia có thể dùng khoảng thời gian giữa các đợt giãn cách xã hội này để chế ra thuốc kháng khuẩn –mặc dù những thuốc đó không phải là thần dược, và chúng có thể có phản ứng phụ cùng nguy cơ vi khuẩn sẽ lờn thuốc [thuốc hết tác dụng, nd].  Các bệnh viện có thể có thì giờ để xoay sở để có đủ trang bị y tế cần thiết.  Các bộ thử nghiệm có thể được phân phối rộng rãi để ứng phó thật nhanh chóng khi vi khuẩn quay trở lại.  Không có lý do gì nước Mỹ lại để SARS-CoV-2 tấn công bất thình lình một lần nữa, và do đó cũng không có lý do gì mà các biện pháp giãn cách xã hội cần được áp dụng rộng rãi và mạnh tay như phải làm hiện nay.  Như Aaron E. Carroll và Ashish Jha vừa rồi đã viết: “Chúng ta có thể cho phép các trường học và doanh nghiệp mở cửa thật nhiều, đóng cửa thật nhanh khi thấy việc ngăn chặn vi khuẩn thất bại, rồi mở lại lần nữa một khi biết rõ ai bị nhiễm và cách ly họ.  Thay vì chơi thế phòng thủ, chúng ta có thể chơi thế tấn công.” 
Dù bằng cách để lây tràn lan dẫn đến miễn nhiễm bầy đàn hay qua việc có được thuốc chủng  ngừa từ lâu mong đợi, càng ngày vi khuẩn này rồi sẽ thấy càng khó gây lây bệnh tràn lan.  Nó khó lòng biến mất hoàn toàn.  Thuốc ngừa có thể cần được làm mới lại cho phù hợp khi vi khuẩn biến đổi, và con người có thể cần được chủng ngừa đều đặn, như người ta phải chích ngừa cúm hằng năm hiện nay.  Các mô hình cho thấy con vi khuẩn này có thể còn lẩn khuất trên thế giới, khoảng vài năm nó lại gây ra một trận dịch.  Kissler nói: “Tôi hy vọng và mong rằng mức độ nghiêm trọng sẽ giảm bớt, và sẽ gây xáo trộn xã hội ít hơn.”  Trong tương lai, COVID-19 có thể giống như cúm mùa hiện giờ – trở lại càng quét mỗi mùa đông.  Có lẽ cuối cùng nó sẽ trở nên xoàng xĩn đến độ dù có thuốc ngừa, nhiều tốp thuộc thế hệ C cũng không buồn chích ngừa, vì vi khuẩn không có mặt nữa, thế hệ ấy sẽ quên đi chuyện thế giới đã từng bị con vi khuẩn thay hình đổi dạng dữ dội như thế nào.  
3.Dư Chấn
Cái giá chúng ta phải trả để đi đến thời điểm đó sẽ khổng lồ, cả khi với tổn thất ít nhất về nhân mạng.  Như Annie Lowrey một đồng nghiệp của tôi đã viết, kinh tế sẽ trải qua một cú sốc “bất ngờ và trầm trọng hơn bất cứ ai từng sống đã kinh qua.”  Cứ năm người lại có khoảng một người Mỹ bị giảm đi giờ làm hoặc bị mất việc.  Các khách sạn trống trơn.  Các hãng hàng không phải hủy bỏ chuyến bay.  Nhà hàng và các doanh nghiệp nhỏ đều đóng cửa.  Càng ngày càng nhiều bất công.  Những người có đồng lương thấp sẽ gặp nhiều khó khăn nhất vì các biện pháp giãn cách xã hội, và vì họ thường là những người bị bệnh kinh niên khiến họ dễ bị lây nhiễm nặng.  Theo Elena Conis, một nhà sử học về y khoa tại đại học Berkeley, bệnh tật từng gây bất ổn cho các thành phố và xã hội biết bao nhiêu lần, “nhưng đã lâu lắm rồi, nó chưa từng xảy ra ở xứ [Mỹ, nd] này, hoặc xảy ra đến mức như chúng ta thấy hiện giờ. Chúng ta sống ở thành thị và các thành phố lớn nhiều hơn.  Số người phải đi lại nhiều, sống và làm việc xa gia đình cũng ngày càng tăng lên.” 
Sau khi bệnh này bớt lây lan, một trận dịch thứ hai về bệnh tâm thần sẽ tiếp nối.  Ngay lúc người ta cảm thấy lo sợ và bất an, họ lại bị cắt đứt liên lạc không được tiếp xúc với ai để an ủi họ.  Ôm nhau, bắt tay và những cách giao tiếp xã hội khác giờ lại bị xem là nguy hiểm.  Những người bị bệnh âu lo hoặc bị chứng ám ảnh rối loạn tâm lý đến mức không kiềm chế được đang khốn đốn.  Người già, vốn đã bị gạt ra ngoài đời sống công cộng, giờ còn được yêu cầu phải tự cách ly hơn nữa, điều này càng khiến họ thêm cô đơn.  Người Á đông bị xỉa xói kỳ thị, khi ông tổng thống đổ dầu vào lửa cứ khăng khăng gán tên cho con vi khuẩn corona mới này là “vi khuẩn Tàu.” Những trường hợp bạo lực trong gia đình và hành hung con trẻ có thể gia tăng khi người ta bị buộc phải rút trong nhà, không được an ổn.  Trẻ em, tuy cơ thể ít bị vi khuẩn này tấn công hơn, vẫn có thể bị chấn thương tâm lý đeo đẳng mãi theo các em cho đến lớn.
Sau cơn đại dịch, những người hồi phục qua cơn bệnh Covid-19 có thể bị xa lánh hoặc nói xấu, như những người sống sót sau cơn dịch Ebola, SARS và HIV đã bị.  Các nhân viên y tế cũng phải một thời gian mới phục hồi: một hay hai năm sau khi Toronto bị SARS tấn công, những người phải đối phó với trận dịch vẫn còn làm việc kém năng suất hơn, và thường hay bị kiệt sức và cảm thấy căng thẳng vì đã trải qua chấn thương tâm lý.  Những người bị cách ly lâu ngày sẽ phải mang vết sẹo do trải nghiệm ấy gây ra.  Steven Taylor thuộc đại học British Columbia, tác giả quyển Tâm Lý Con Người Sau Cơn Đại Dịch, nói: “Các đồng nghệp của tôi ở Vũ hán ghi nhận là một số người bây giờ không chịu ra khỏi nhà và cảm thấy sợ chỗ đông người.”
Nhưng Richard Danzig làm việc tại Trung tâm Vì Một Nền An Ninh Mới Cho Nước Mỹ nói: “Cũng có một tiềm năng là thế giới sẽ tốt đẹp hơn sau khi chúng ta qua được cơn đau này.  Các cộng đồng đang tìm những phương thức mới để kết hợp lại với nhau, ngay cả khi họ phải giữ khoảng cách xa nhau.  Thái độ con người đối với sức khoẻ cũng có thể sẽ thay đổi tốt hơn. 
HIV và AIDS xuất hiện “đã làm thay đổi hoàn toàn hành vi tình dục của người trẻ bước vào tuổi dậy thì ngay lúc trận dịch ấy đang lan tràn mạnh,” theo lời của Conis. “Việc sử dụng bao cao su đã trở nên bình thường.  Thử nghiệm về các bệnh lây qua đường tình dục đã thành bình thường [hòa nhập vào dòng chính của xã hội, nd].” Tương tự, rửa tay 20 giây, một thói quen mà lịch sử cho thấy rất khó được áp dụng nghiêm túc ngay cả trong bệnh viện, “ có thể là một trong những hành vi mà chúng ta trở nên quá quen thuộc trong thời gian dịch bùng phát này, đến độ chúng ta làm mà không cần suy nghĩ.”
Các cơn đại dịch có thể làm chất xúc tác cho thay đổi xã hội.  Với tốc độ nhanh chóng một cách đáng kể, con người, doanh nghiệp và các học viện đã chấp nhận hoặc kêu gọi thực hành theo phương cách mà đã có lần họ còn lần khần chưa chịu áp dụng, bao gồm làm việc ở nhà, hội thảo qua điện thoại để thích nghi cho người khuyết tật, cho nghỉ làm việc khi bị bệnh một cách hợp lý, và thu xếp giờ giấc giữ trẻ linh động.  Adia Benton, giáo sư nhân chủng học tại đại học Northwestern nói: “ Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nghe có người nói, ‘Ồ, nếu bệnh, bạn hãy ở nhà.’ ”  Có lẽ nước Mỹ sẽ học được rằng chuẩn bị đối phó với đại dịch không phải chỉ có chuyện khẩu trang, thuốc ngừa và thử nghiệm, mà còn chuyện chính sách lao động công bằng và một hệ thống y tế vững chắc, bình đẳng.  Có lẽ nước Mỹ sẽ trân quý việc nhân viên y tế và các chuyên gia y tế công cộng giúp làm nên hệ thống miễn nhiễm xã hội của Mỹ, và việc hệ thống này đã bị dồn ép.
Sau vụ COVID—19 các khía cạnh của danh tính Mỹ có thể cần được suy nghĩ lại.  Trong trận đại dịch, nhiều giá trị của nước Mỹ dường như tác động đối nghịch lại chính nó.  Cá nhân chủ nghĩa, tính ưu việt của Mỹ, và khuynh hướng xem việc muốn làm gì thì làm như một hành động chống đối có nghĩa là vào thời điểm phải cứu mạng người và phải ở nhà, một số người lại rủ nhau ra quán và hộp đêm.  Trải qua nhiều năm sau biến cố 9/11, với thông điệp chống khủng bố đã ăn sâu trong lòng, người Mỹ nhất định không sống trong sợ hãi [sống không biết sợ là gì, nd].  Nhưng vi khuẩn SARS-CoV-2 không hề quan tâm chuyện họ sợ hay không , nó chỉ quan tâm đến tế bào của họ.
Những năm qua với nhiều lời hoa mỹ nói về sự tách rời của nước Mỹ [không cần đồng minh hay dính líu với nước nào khác, nd] cũng đã để lại hậu quả.  Những người Mỹ nào xem Trung quốc như một nơi khác lạ, xa xôi, ở đó người ta ăn thịt dơi và chấp nhận độc tài, đều không nghĩ rằng họ sẽ là kẻ kế tiếp đối đầu với trận dịch và  họ chưa sẵn sàng gì cả. (cách đối phó của Trung cộng với cuộc khủng khoảng này cũng đã có vấn đề riêng của họ, nhưng chúng ta sẽ bàn chuyện ấy vào dịp khác).  Wendy Parmet, nhà nghiên cứu luật và y tế công cộng tại đại học Northeastern, nói: “Dân chúng tin vào cách nói hoa mỹ cho rằng ngăn chặn sẽ hữu hiệu. Chúng ta không cho họ vào thì chúng ta sẽ không sao.  Khi anh có một bộ máy chính trị đồng tình với ý tưởng cô lập hóa và dân tộc chủ nghĩa, anh hết sức yếu ớt khi đại dịch tấn công.”  
Những chuyên gia dày dạn kinh nghiệm chống lại các đại dịch trước đây từ lâu đã lên tiếng cảnh báo rằng xã hội Mỹ bị mắc kẹt trong vòng hốt hoảng và phó mặc.  Sau mỗi cuộc khủng hoảng –dịch bệnh than, SARS, cúm mùa và Ebola –thì người ta mới chú ý và đầu tư vào.  Nhưng sau một thời gian ngắn bình an, ký ức [về trận dịch, nd] lại phôi pha và ngân sách [dành để chống dịch, nd] giảm đi.  Khuynh hướng này xảy ra dưới chính quyền của cả đảng Cộng hòa lẫn đảng Dân chủ.  Khi trật tự bình thường mới đã đâu vào đấy rồi, người ta lại khó hình dung ra tình huống bất thường.  Nhưng có lý do để chúng ta nghĩ rằng COVID-19 có thể là một thảm họa dẫn đến một sự thay đổi triệt để và lâu dài. 
Các trận dịch khác trong những thập niên gần đây hoặc gần như không ảnh hưởng đến Hoa kỳ (như SARS, MERS, Ebola), nhẹ hơn người ta nghĩ (như cúm H1N1 năm 2009), hoặc chủ yếu chỉ giới hạn trong một vài nhóm người (như Zika, HIV).  Ngược lại, trận đại dịch COVID-19 này ảnh hưởng trực tiếp đến mọi người, làm thay đổi tận gốc đời sống hàng ngày của họ.  Điều này không chỉ khiến bệnh này khác biệt hẳn những bệnh khác, mà còn làm nó khác với mọi thách thức khác mang tính hệ thống trong thời đại của chúng ta.  Khi chính phủ nói vòng vo về biến đổi khí hậu, người ta không cảm thấy ảnh hưởng của nó trong nhiều năm, và ngay cả khi cảm thấy rồi, cũng vẫn khó lòng mổ xẻ phân tích ảnh hưởng ấy.  Khi một tổng thống nói mọi người có thể được thử nghiệm, và một ngày sau, mọi người không được thử gì cả, lại là chuyện khác hẳn.  Đại dịch là kinh nghiệm mọi người đều nếm trải như nhau.  Những người có đặc quyền và thế lực thường được bảo vệ không bị cơn khủng hoảng tác động nay lại trực diện với chuyện bị cách ly, bị thử nghiệm dương tính, và có người thân yêu qua đời vì dịch bệnh.  Thượng nghị sĩ cũng mắc bệnh này.  Hậu quả của việc giảm tài trợ cho các cơ quan y tế công cộng, mất đi chuyên gia, và bắt các bệnh viện phải làm việc quá tải không còn hiện ra qua các ý kiến giận dữ lẻ tẻ nữa, mà là những lá phổi đang thoi thóp. 
Sau biến cố 9/11, cả thế giới tập trung vào chống khủng bố.  Sau COVID-19, người ta có thể đổi sang tập trung chú ý vào y tế công cộng.  Thế nào cũng có một sự tăng vọt về tiền tài trợ cho ngành vi khuẩn học, số sinh viên nộp đơn xin học các chương trình y tế công cộng sẽ gia tăng, và sản xuất các trang bị y tế trong nước cũng sẽ nhiều hơn trước.  Thế nào đại dịch cũng sẽ được đặt lên hàng đầu trong chương trình nghị sự của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.  Tên tuổi Anthony Fauci ai ai cũng biết.  Monica Schoch-Spana, một nhà nhân chủng học y khoa làm việc tại Trung tâm An Ninh Y Tế Johns Hopkins nói: “Người thông thường nghĩ ra một cách dễ dàng công việc của các nữ cảnh sát hay lính cứu hỏa rốt rồi họ cũng sẽ hiểu công việc của nhà dịch tể học.”
Chính những thay đổi như thế có thể bảo vệ thế giới khỏi mắc chứng bệnh không tránh được sẽ xảy ra tiếp theo trận này.  Ron Klain, người đứng đầu chống dịch Ebola trước đây, nói: “Ở các nước từng trải qua trận dịch SARS, công chúng đều có ý thức rõ về điều này, và nó đã giúp họ bắt tay ngay vào hành động.  Hiện giờ câu người ta thường nghe người Mỹ nói là ‘Hồi nào đến giờ tôi chưa bao giờ thấy chuyện như vầy.’ Không ai ở Hồng kông nói câu đó hết.”  Đối với Hoa kỳ, và đối với cả thế giới, điều mà một cơn đại dịch có thể gây ra đã sờ sờ, quá nhiều và quá choáng ngợp rồi.
Những bài học nước Mỹ rút ra được từ kinh nghiệm này thật khó lòng đoán được, nhất là vào thời điểm khi những phương cách bày vẽ trên mạng và xướng ngôn viên của các đảng phái chỉ phục vụ những tin tức nào phù hợp với định kiến của khán giả thuộc riêng nhóm họ.  Theo Ilan Goldenberg, chuyên gia về chính sách ngoại giao tại Trung tâm Vì An Ninh cho Một Nước Mỹ Mới, thì những động lực như vậy sẽ là then chốt trong những tháng sắp đến.  Anh ta nói: “Những bước  chuyển tiếp sau Thế chiến thứ hai hoặc sau biến cố 9/11 không phải chỉ là một số các ý tưởng mới.  Các ý tưởng mới hiện nay đã có rồi, nhưng tranh luận sẽ sắc bén hơn trong vài tháng sắp đến do diễn biến nhanh ở thời điểm này và do công chúng Mỹ muốn đón nhận những thay đổi to lớn.”
Người ta dễ dàng hình dung ra một thế giới trong đó đại đa số dân Mỹ đều tin rằng Hoa kỳ đã thắng COVID-19.  Mặc dù mắc nhiều sai lầm, mức độ dân chúng ủng hộ Trump vẫn tăng.  Hãy tưởng tượng xem, ông ta thành công khi quay ra đổ lỗi cho Trung quốc, gán cho xứ ấy vai trò một tên côn đồ và nước Mỹ vai người hùng kiên cường.  Trong nhiệm kỳ tổng thống lần thứ hai của Trump, nước Mỹ sẽ còn hướng nội hơn nữa, và sẽ rút ra khỏi NATO cùng các đồng minh quốc tế khác, xây các bức tường thực sự và theo nghĩa bóng, và sẽ không còn đầu tư vào những nước khác.  Khi thế hế C lớn lên, các dịch bệnh từ nước khác đến sẽ là mối đe dọa mới đối với các thế hệ, thay thế cộng sản và khủng bố.         
Người ta cũng có thể tiên đoán một tương lai trong đó nước Mỹ học một bài học khác.  Một tinh thần cộng đồng, mỉa mai thay tinh thần này lại nảy sinh ra từ việc giãn cách xã hội, khiến người ta hướng ra ngoài, hướng đến hàng xóm láng giềng dù là người từ xứ khác đến hay người dân trong nước.  Cuộc bầu cử tháng Mười Một năm 2020 trở thành một sự phản kháng lại nền chính trị chủ trương “Mỹ trước hết.”  Cả quốc gia xoay trục, như đã xảy ra sau Thế chiến thứ hai, từ cô lập hóa đi đến chỗ hợp tác quốc tế.  Ngoi lên nhờ đầu tư đều đặn và nhờ những đầu óc thông minh nhất đổ xô đến, lực lượng lao động y tế tăng cao.  Những trẻ em thế hệ C viết các bài nghị luận cho nhà trường nói về việc khi lớn lên các em sẽ là nhà dịch tể học.  Y tế cộng đồng trở thành trung tâm của chính sách đối ngoại.  Hoa kỳ sẽ lãnh đạo một sự hợp tác toàn cầu mới, tập trung vào việc giải quyết các thách thức như đại dịch và biến đổi khí hậu.
Vào năm 2030, SARS-CoV-3 không biết từ đâu lại hiện ra, và chỉ trong vòng một tháng, đã phải đầu hàng.

Chú thích của người dịch:
Bài báo này chỉ thể hiện quan điểm của người viết.  Bản tiếng Anh của bài đăng ngày 25 tháng 3 vừa qua: https://www.theatlantic.com/health/archive/2020/03/how-will-coronavirus-end/608719/?utm_source=pocket-newtab
Người dịch chỉ chịu trách nhiệm về mặt ngôn ngữ dịch thuật từ tiếng Anh sang tiếng Việt. 
*Edmund Soon-Weng Yong (sinh năm 1981), thường được biết qua tên Ed Yong, là một nhà báo người Anh chuyên viết về khoa học.  Trang blog của anh tựa là Không Thực Sự Quá Khó Đâu được xem như một phần của mạng thông tin bằng blog thuộc National Geographic Phenomena.  Trước đây các bài viết của anh từng được đăng trong các tạp chí Nature, Scientific American, the BBC, Slate, The Guardian, The Times, New Scientist, Wired, The New York Times, và The New Yorker.  Từ năm 2015 anh trở thành biên tập viên chính thức của tờ The Atlantic.  Yong nhận bằng cử nhân và thạc sĩ về khoa học tự nhiên ngành Động vật học (Zoology) tại đại học Cambridge năm 2002.  Sau khi tốt nghiệp, anh tiếp tục học lên tại University College London (UCL) và nhận bằng Master of Philosophy (MPhil, bằng này ở Anh tương đương postgraduate degree bên Mỹ, chuyên dạy và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của một vị giáo sư có kinh nghiệm chuyên môn lâu năm, nd) năm 2005 ngành sinh hóa chuyên về phân giải và tái kết hợp nhân tế bào.
** Người dịch [nd] chú thích.
***Bill Gates “The next outbreak? We're not ready” TED 2015.  28,942,535 lượt người xem (tính đến April 9,2020).
**** “Curve” là đường cong của mô hình lý thuyết cho thấy sự lan tràn của dịch bệnh.  “Flattening the curve” nói về những biện pháp cô lập cộng đồng nhằm giữ đường cong dãn thấp ra, không nhô cao, tức là giữ con số người nhiễm bệnh nằm ở mức độ giới y tế có thể quản lý được.