VỀ CHẾT VÀ TÁI
SINH –
CÁCH THỨC ĐỐI MẶT VỚI CÁI CHẾT
Khenpo Tsultrim Lodro Rinpoche[1] giảng
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ
CÁCH THỨC ĐỐI MẶT VỚI CÁI CHẾT
Khenpo Tsultrim Lodro Rinpoche[1] giảng
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ
Sống và chết đều vô cùng quan trọng
với mọi người bởi chúng là số phận. Không ai có thể từ chối hay tránh khổ đau liên
quan đến sinh, lão, bệnh, tử và cuộc sống thực sự. Gom góp đủ sức mạnh để đối
mặt với nó là cách duy nhất.
Khi đối mặt với cái chết, tất cả của
cải thế gian, kiến thức, kinh nghiệm và v.v. đều được xem là vô ích. Không có
sự rèn luyện trước đó trong sự chuẩn bị cho cái chết, mỗi người, bất kể địa vị
của anh hay cô ấy trong cuộc đời có lỗi lạc đến đâu, sẽ đều hoảng sợ khi đối
mặt với cái chết. Nhiều người trở nên cực kỳ bi quan và nản lòng, trở nên tái nhợt
và hốc hác ngay tức thì, sau khi bị chẩn đoán ung thư giai đoạn sau và được bác
sĩ thông báo về cái chết. Thông thường, nỗi sợ của họ còn có hại với tình hình
của họ hơn chính căn bệnh ung thư.
Hầu hết mọi người chỉ cảm thấy không
được giúp đỡ về cách đối mặt với cái chết. Nếu toàn bộ quá trình chết có thể
được chuyển hóa thành hành trình giải thoát đầy hoan hỷ và ý nghĩa, không cần
phải cảm thấy lo âu và bi đát.
Ở đây, chúng ta sẽ thảo luận phần về
cách đối mặt với cái chết trong bản văn Tạng ngữ Bardo Todrol hay Giải
Thoát Nhờ Nghe Trong Trạng Thái Trung Gian. Bởi sự thật rằng Bardo
Todrol là một bản văn Đại Viên Mãn Dzogchen, người ta phải thọ nhận quán đỉnh
và hoàn thành năm thực hành sơ khởi trước để có thể nghiên cứu tỉ mỉ về bản văn
này. Nếu không, nó được xem là một sự vi phạm trình tự nghiên cứu những giáo lý
bí mật của Kim Cương thừa khi trao giáo lý cho ai đó không xứng đáng. Đây không
chỉ là một lỗi lầm, mà những giáo lý cũng không thể làm lợi lạc bất kỳ ai không
đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, các thực hành đặc biệt của Kim Cương thừa trong bản
văn này sẽ không được thảo luận ở đây.
Bardo Todrol trình bày hai kiểu phương
pháp để đối mặt với cái chết: một là cách đối mặt với cái chết một cách cá nhân;
hai là cách giúp người khác đối mặt với cái chết, chẳng hạn trì tụng những bản
văn hay Mật chú lúc chết hay thực hành chuyển di thần thức (Phowa[2]),
một nghi thức sau khi chết, thứ, giống như dịch vụ chăm sóc hấp hối ở phương
Tây, đặc biệt hữu ích với những bệnh nhân vô phương cứu chữa. Những chỉ dẫn
trong Bardo Todrol không có sẵn ở bất kỳ nơi nào khác trong các nghiên cứu
thông thường ngoại trừ trong y học Tây Tạng, nơi mà chúng được nhắc đến theo
cách nào đó.
I. ĐỐI MẶT VỚI CÁI CHẾT MỘT CÁCH ĐÚNG
ĐẮN
Biết về cái chết một cách chuẩn xác
có thể giúp chúng ta vượt qua sợ hãi, lo âu và sự lảng tránh khi cái chết được
nhắc đến bởi chúng ta đã biết rằng cái chết chỉ là một phần của quá trình xoay
vòng của cuộc sống, chứ không phải kết thúc. Không cần phải cảm thấy chán nản
và bi quan khi đối mặt với cái chết. Trái lại, chúng ta thậm chí có thể nâng cuộc
đời mình lên một mức độ khác trong cái chết nếu biết cách tận dụng cơ hội.
Từ chết đến tái sinh, ít nhất có vài
cơ hội nữa để một người đạt giải thoát, đạt Phật quả hay tái sinh trong Cực Lạc
Sukhavati (cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà) nếu người đó nắm bắt được những chỉ
dẫn cốt tủy về cái chết. Không đạt được Phật quả hay tái sinh trong cõi Tịnh độ
của Phật A Di Đà, bằng cách áp dụng những chỉ dẫn cốt tủy về cái chết, người ta
cũng có thể tự tại lựa chọn tái sinh trong cõi người, có một cuộc đời được phú
bẩm những tự do và thuận duyên để thực hành Giáo Pháp và rốt ráo đạt giải thoát.
Đã nắm vững những chỉ dẫn cốt tủy, người ta không còn chỉ phó mặc nghiệp lực quá
khứ khi tái sinh. Thiếu kiến thức này, người ta sẽ bỏ lỡ mọi cơ hội giải thoát
khỏi sự kiểm soát của nghiệp lực rất nhiều lần. Vì thế, điều quan trọng là học
hỏi những chỉ dẫn cốt tủy về cái chết.
i. Các dấu hiệu báo trước về cái chết
Trước hết, làm sao người ta biết
được bản thân sắp chết? Các dấu hiệu báo trước về cái chết được nhắc đến trong
nhiều bản văn Đại Viên Mãn Dzogchen. Trong số chúng, một sự giải thích rõ ràng
được trình bày trong Tinh Túy Đạo Sư Tâm Linh của Tôn giả
Longchenpa[3].
Những dấu hiệu báo trước đến dưới
nhiều dạng: tâm lý, vật lý, giấc mơ, xa, gần, rất gần, v.v. Khi một dấu hiệu xa
xuất hiện, một người sẽ chết trong vòng hai hay ba năm. Vài dấu hiệu chỉ ra một
người có thể chết trong một năm, sáu tháng hay vài tháng trong khi một số khác
cho thấy trong vòng vài ngày. Tuy nhiên, chúng ta thường không để tâm đến các
điềm báo này bởi chúng ta không biết rằng chúng là những dấu hiệu của cái chết.
Các dấu hiệu gần nhất chỉ ra rằng
một người sẽ chết trong hai tiếng đồng hồ hay ít hơn hai mươi giờ sau khi những
dấu hiệu như vậy xuất hiện. Ví dụ, khi mắt vẫn có thể thấy nhưng thị lực thì mờ
dần; tai có thể nghe nhưng âm thanh thì không rõ, như thể nó đến từ nơi rất xa.
Khi những điều này xảy ra, người ta cần biết rằng cái chết vốn đã rất gần.
Nhưng khi một dấu hiệu xa được nhận
ra, người ta không thể chỉ sử dụng thực hành Phowa để trực tiếp chạm đến cái
chết bởi nó giống như giết hại một mạng sống. Điều cần được thực hiện là tham
gia vào thực hành trường thọ Vô Lượng Thọ Phật (Amitayus) để tạm thời đẩy lùi
cái chết. Nếu điều này không thể đảo ngược cái chết sau nhiều lần nỗ lực, người
ta cần áp dụng những biện pháp sau đây.
Bardo Todrol nói rằng một hành giả
tốt thường biết thời điểm qua đời của anh hay cô ấy. Một cách tự nhiên, những
người không thực hành chẳng có cách nào biết được điều này. Là những học trò
của Phật Pháp, chúng ta cần nói với bác sĩ như thế này, “Hãy thành thật cho tôi
biết nếu tôi không thể được chữa trị. Tôi sẽ không lo sợ bởi tôi là một hành
giả và tôi cần chuẩn bị bản thân trước cái chết”. Nếu bác sĩ vẫn giấu sự thật,
hãy xem xét thái độ của những người xung quanh.
ii. Những điểm then chốt để đối mặt với cái chết trong Phật giáo
Đại thừa Hiển giáo
1. Buông bỏ bám chấp với của cải thế gian của đời này
Hãy trao mọi của cải và tài sản để làm
những việc tốt, đóng góp cho những trường từ thiện, tổ chức phúc lợi xã hội hay
cúng dường chư Phật và Tăng đoàn, giải phóng sinh mạng, v.v. Cũng tốt nếu để
lại một phần cho con cái của bạn. Mặc dù không phải tốt nhất, sau tất thảy, nó
vẫn được xem là một kiểu bố thí. Thậm chí chỉ một chút tham luyến cũng có thể trở
thành chướng cản đối với tái sinh.
2. Đừng sợ hãi cái chết mà hãy phát khởi những mong ước thiện lành
Hãy chắc chắn về việc nói với bản
thân rằng, “Mãi mãi chia xa những thành viên gia đình đáng yêu thì thực sự là
một tai họa to lớn, nhưng sống và chết, vui và buồn, chia ly và hội ngộ của hữu
tình chúng sinh cũng chỉ là quy luật tự nhiên của cuộc sống. Tất cả bảy tỷ
người trên thế giới đều sẽ đối mặt với cái chết vào lúc nào đó. Tôi không phải
là người duy nhất”. Nhờ nghĩ như vậy, bạn sẽ không cảm thấy quá quẫn trí với
cái chết của bản thân.
Thông thường, người ta cần nỗ lực sám
hối những bất thiện hạnh quá khứ, nhưng khi tiến gần đến cái chết, họ không nên
quá xem trọng những ác nghiệp của bản thân, lo âu và hối tiếc nhiều đến mức họ
mất tập trung vào thực hành trọng yếu trong tay. Đây sẽ là một vấn đề nghiêm
trọng. Thay vào đó, họ cần nghĩ như sau: Mặc dù tôi đã phạm phải ác hạnh nghiêm
trọng, tôi cũng đã làm nhiều điều tốt đến mức hầu hết lỗi lầm chắc hẳn đã được
tịnh hóa; nó không thể nào quá tệ. Điều quan trọng là không quá xem trọng ác
nghiệp của bản thân vào lúc này để xoa dịu tâm và đối mặt với cái chết một cách
bình tĩnh.
Bên cạnh đó, người ta cần phát
nguyện theo những giáo lý Bảy Điểm Luyện Tâm: Nguyện con gặp được Phật
giáo Đại thừa, hạnh ngộ một thiện tri thức tâm linh – vị có thể giải thích cho
con những giáo lý của Đại thừa và phát khởi Bồ đề tâm trong mọi đời sắp tới.
Bất kỳ ý nghĩ nào trong giờ phút cuối
cùng của cuộc đời đều có thể có ảnh hưởng quan trọng đối với cái chết. Bất kỳ mong
ước nào được phát khởi trước khi chết cũng có thể tạo ra sức mạnh to lớn. Vì
vậy, hãy nỗ lực hết sức để phát khởi những mong ước thiện lành khi cái chết đến
gần. Hãy đảm bảo không nuôi dưỡng bất kỳ thù hận hay phàn nàn nào với bất kỳ
ai, bất kỳ điều gì hay xã hội nói chung. Hãy bỏ lại tất cả những chiếc túi của
tham, sân và si và tiếp tục một hành trình cuộc đời mới với sự thoải mái trọn
vẹn. Tuy nhiên, thật khó để nói liệu người ta có thể gặp gỡ giáo lý Đại thừa một
lần nữa trong đời sau hay không nếu mong ước như vậy không được phát khởi lúc
cuối đời này.
3. Phá vỡ chấp ngã và sự chăm sóc cái ngã
Cùng lúc, người ta cũng cần suy ngẫm
lý do tại sao đã trải qua vô số lần sinh và tử từ vô thủy, người ta vẫn không thể
đạt giải thoát trong mỗi lần. Họ làm việc quần quật trong vài thập niên sống
trên thế giới này, chỉ nhận ra vào lúc cuối đời rằng chẳng gì trong những công
việc trong đời này hữu ích với sự giải thoát và tái sinh. Và lý do cho vô số
lần thất bại chính là bởi chấp ngã. Bởi chấp ngã và chăm sóc cái ngã, người ta
chỉ yêu thương bản thân, chỉ thích thú phục vụ bản thân và xem thường nhu cầu
cũng như cảm xúc của chúng sinh khác. Lần này, với những chỉ dẫn cốt tủy về cái
chết cuối cùng đã nằm trong tay, họ phải quyết tâm tiêu diệt chấp ngã và sự
chăm sóc cái ngã.
4. Sức mạnh cảm ứng
Cũng có vài trường hợp sử dụng sức
mạnh cảm ứng trong đời sống hàng ngày. Ví dụ, nếu bạn phải thức dậy lúc năm giờ
sáng hôm sau, khi bạn sắp chìm vào giấc ngủ, bạn quyết tâm làm điều đó bằng
cách nhiều lần tự nhủ, “Tôi phải thức dậy lúc năm giờ sáng mai”. Như thế, bạn
có thể chắc chắn dậy đúng giờ vào hôm sau.
Chư A La Hán cũng làm điều tương tự
trước khi nhập định. Nếu chư vị chuẩn bị để duy trì trong định trong bảy ngày,
chư vị sẽ phát nguyện ngay trước đó: Tôi phải xuất định vào ngày thứ bảy. Làm
điều này sẽ đảm bảo rằng chư vị có thể kết thúc thiền định một cách tự nhiên
vào hôm đó. Đó là sức mạnh cảm ứng.
Nó cũng có thể được sử dụng khi đối
mặt với cái chết. Khi biết rằng bạn sắp từ giã thế giới này và bước vào cái
chết, bạn phải nhắc nhở bản thân: Chẳng bao lâu, tôi sẽ chìm vào hôn mê sâu và
sau đấy tỉnh lại từ đó. Khi tỉnh lại và nhìn môi trường xung quanh, tôi phải
nói với bản thân rằng tôi đã chết. Lúc này, tôi không được phép sợ hãi mà phải cố
gắng tìm kiếm một nơi tốt đẹp hơn để tái sinh. Tôi cũng phải quyết tâm không
quên lòng bi mẫn và Bồ đề tâm khi tái sinh và đem lòng bi mẫn và Bồ đề tâm theo
cùng đến đời sau.
Tâm chúng ta vốn đã có năng lực như
vậy. Vì thế, chúng ta cần làm tất cả những gì có thể để phát triển năng lực
này. Đó là sức mạnh cảm ứng được sử dụng vào thời điểm lâm chung.
5. Cần quán tưởng chư Bổn tôn trong quá trình lâm chung
iii. Những điểm then chốt để đối mặt với cái chết trong Phật
giáo Kim Cương thừa
Trong Kim Cương thừa, có hai phương
pháp tốt nhất để đối mặt với cái chết: một là thực hành Phowa, điều kia là
những chỉ dẫn cốt tủy đặc biệt của Mật chú Bí mật.
Nếu có thể, sẽ là lý tưởng nếu thỉnh
mời đạo sư của bản thân đến và giải thích điều có thể xảy ra khi trải qua cái
chết và những điểm quan trọng cần giữ trong tâm. Đây là thực hành phổ biến ở Tây
Tạng. Khi nghe tin rằng ai đó sẽ sớm qua đời, đạo sư sẽ lập tức khởi hành đến
gặp người đó. Tốt nhất là gặp được người đó trước khi cái chết xảy ra và trao
mọi chỉ dẫn trọng yếu đúng lúc để người lâm chung sử dụng ngay sau đó. Kết quả
có thể không tốt nếu người đó chết trước khi đạo sư đến. Nếu đạo sư không thể
đến, hãy yêu cầu một hành giả Kim Cương thừa kinh nghiệm, vị thân thiết với
người lâm chung, làm điều tương tự; nếu điều này cũng không thể, cũng thật tốt
nếu yêu cầu một hành giả Kim Cương thừa, người giữ gìn thệ nguyện Samaya tương
đối thanh tịnh trao những lời nhắc nhở với người lâm chung.
II. NHỮNG ĐIỀU ĐẶC BIỆT ĐƯỢC THỰC HIỆN VÌ
NGƯỜI LÂM CHUNG
1. Truyền giới và ban quán đỉnh
Nếu người lâm chung chưa từng thọ
nhận bất kỳ giới luật nào trước kia, giới quy y hay giới của những hành giả cư
sĩ, hãy trao truyền bất cứ điều gì cần thiết. Nếu các giới luật được thọ nhận
trước kia đã bị phá vỡ theo cách nào đó, bây giờ là lúc phục hồi chúng. Ở Tây
Tạng, khi một người sắp qua đời và nếu thời gian cho phép, người lâm chung phải
được trao cho cơ hội thọ nhận quán đỉnh. Nếu quán đỉnh được thọ nhận vào lúc
qua đời, không có cơ hội phá vỡ giới Kim Cương thừa. Do đó, giới luật sẽ được giữ
gìn thanh tịnh khi người đó rời bỏ thế giới này, điều có thể ảnh hưởng một cách
tích cực đến hướng tái sinh trong đời sau. Vì vậy, điều vô cùng quan trọng là
có thể thọ giới và quán đỉnh vào lúc lâm chung.
2. Sám hối
Bây giờ cũng là lúc mà đạo sư hay
các đạo hữu dẫn dắt người lâm chung sám hối về những hành động xấu đã phạm
phải. Thậm chí nếu người đó không còn có thể nói hay quỳ lạy để bày tỏ sự hối
lỗi, chỉ giữ cảm giác hối hận cũng đủ để tịnh hóa những ác hạnh quá khứ.
3. Buông bỏ
Hãy đảm bảo việc nhắc nhở người lâm
chung: đừng mong nhớ, than phiền hay ghét bỏ thế giới này. Mọi thứ đã hoàn tất.
Tất cả sẽ bị bỏ lại đằng sau và mọi mối quan hệ kết thúc. Bạn cần tập trung mọi
sự chú ý vào những câu hỏi lớn về cách đối mặt với cái chết, cách tái sinh và
cách đối mặt với đời sau. Hãy buông bỏ mọi vướng mắc với đời này và ra đi không
chút gánh nặng!
Có một nghi quỹ đặc biệt cho trạng
thái trung gian, mà nội dung chỉ là điều mà chúng ta đã thảo luận ở đây. Nếu nghi
quỹ này có sẵn, tất cả những gì người ta cần làm là đọc nó cho người lâm chung.
4. Tư thế
Tư thế của chúng ta vào lúc chết
cũng khá quan trọng. Lúc lâm chung, người ta cần giữ tư thế nằm giống như của
Phật Thích Ca Mâu Ni khi Ngài nhập Niết Bàn – đầu hướng về phía Bắc, chân phía
Nam, nằm về bên phải của thân, đặt tay phải dưới đầu, ấn mũi phải bằng ngón út
phải và thở qua mũi trái. Các bản văn nói rằng khi nằm về bên phải của thân, hơi
thở sẽ tự nhiên đi qua mũi trái. Tuy nhiên, điều vẫn rất quan trọng là chặn mũi
phải. Dù là Phật tử hay không, bằng cách nằm đúng tư thế khi lâm chung, người
ta có thể chắc chắn không tái sinh vào trong ba cõi thấp hơn trong một hay hai đời
sau, ngay cả khi không có sự giúp đỡ của bất kỳ nghi thức chuyển di nào khác.
[Tượng] Phật đang nằm được thờ trong
Phật giáo Tây Tạng hay Trung Hoa là điều khá hiếm thấy. Tuy nhiên, Phật giáo
Nguyên thủy Theravada cho rằng sự nhập diệt của Đức Phật đại diện cho trạng
thái rốt ráo có khả năng đạt được. Vì thế, tượng Phật nằm, điều biểu tượng cho
sự nhập diệt của Đức Phật, thường được thấy trong những ngôi chùa Phật giáo Nam
Tông, chẳng hạn ở Thái Lan và các quốc gia Đông Nam Á khác. Sự giải thích này
không sai bởi Đức Phật không bao giờ thực sự chết.
Nếu không có ai có thể trao những
lời nhắc nhở và người ta phải nương tựa vào bản thân để lái hướng tái sinh,
điều đầu tiên mà họ cần làm là ăn năn và từ bỏ mọi ham muốn cũng như thù hận
với thế giới này. Khi mà người ta vẫn có thể nói, hãy đảm bảo việc nói với các
thành viên gia đình giúp họ nằm về bên phải khi lâm chung. Với tất cả mọi người,
cái chết quan trọng hơn sự chào đời, vì thế, các mong ước của người lâm chung
thực sự cần được tôn trọng bởi tất cả những ai liên quan.
5. Thực hành Phowa
Thực hành này bao gồm Phowa Pháp
thân, Báo thân và Hóa thân. Bởi những thực hành liên quan đến Pháp thân và Báo
thân giống như những gì được trình bày trong Một Hướng Dẫn Về Các Thực
Hành Sơ Khởi Đại Viên Mãn Dzogchen, chúng sẽ không được thảo luận ở
đây. Phowa Hóa thân là chung với cả trường phái Hiển và Mật của Phật giáo.
Sau khi nằm xuống về bên phải, người
ta cần đặt phía trước một bức hình Phật Thích Ca Mâu Ni, Quán Thế Âm, Liên Hoa
Sinh hay Bổn Sư của họ. Những hành giả Tịnh Độ cần đặt hình Phật A Di Đà trong
khi những vị đã tiến hành thực hành Bổn tôn Yidam cần sử dụng hình của Bổn tôn tương
ứng. Cùng lúc, những thành viên gia đình cần giúp đỡ chuẩn bị các món cúng
dường lên chư Bổn tôn. Nếu không thể tìm thấy hình ảnh Bổn tôn, sự quán tưởng
bởi người lâm chung cũng có thể được chấp nhận.
Sau đó, hãy phát khởi mong ước: Để giải
cứu tất cả hữu tình chúng sinh, mong con, với cái chết này, đạt được Hóa thân, trở
thành vị kế thừa chư Phật ba đời và tiếp tục các hoạt động làm lợi lạc hữu tình
chúng sinh mãi mãi.
Kế đó, hãy quán tưởng thần thức của bản
thân như một điểm trắng (một điểm sáng) nhuốm đỏ phía dưới rốn. Khi kéo hơi từ
bụng với một chút lực, điểm này cũng di chuyển lên dọc theo kinh mạch trung
ương. Khi nó đến mũi trái, người ta thốt lên, “Ho!” và lập tức đẩy thần thức từ
mũi trái, thứ tan vào tim của Bổn tôn hay Bổn Sư, vị được đặt phía trước; điểm
này không được thu lại. Cũng thực tế khi quán tưởng đạo sư hay chư Bổn tôn bay
lên ngày càng cao hơn đến Tây Phương Tịnh Độ, mang theo thần thức. Quán tưởng
như vậy chỉ một lần không thể đảm bảo cơ hội tái sinh Tây Phương Tịnh Độ. Nhưng
người ta có thể chắc chắn thành công nếu sự quán tưởng được thực hành đủ số
lần.
Phương pháp quán tưởng thần thức đi
ra khỏi từ mũi trái về cơ bản dành cho những vị đã vun bồi gốc rễ thiện hạnh nhất
định nhưng sự hành trì vẫn còn chậm. Nó không phải là một phương pháp để đạt giải
thoát mà chỉ để tái sinh trong cõi người để tiếp tục thực hành Giáo Pháp cho
đến khi cuối cùng đạt giải thoát.
Với người đã khuất, nơi mà thần thức
rời khỏi thân thể lúc cuối là điều vô cùng quan trọng. Nguyên tắc của thực hành
Phowa là thần thức phải di chuyển qua kinh mạch trung ương và ra khỏi từ giữa
đỉnh đầu để đạt giải thoát và tái sinh trong một cõi Tịnh độ.
Dấu hiệu Phowa thành công là sau khi
chết, sự rụng tóc có thể thấy được, một vết sưng hay chút chất lỏng màu vàng rỉ
ra quanh đỉnh đầu. Những dấu hiệu này là bằng chứng của sự tái sinh thành công.
Nếu những triệu chứng này xuất hiện, sự hướng dẫn tiếp theo về thực hành trạng
thái trung gian sẽ không còn cần thiết. Nếu không, đạo sư hay các đạo hữu sẽ
cần cung cấp sự dẫn dắt để thực hành trạng thái trung gian.
6. Hướng dẫn về thực hành trạng thái trung gian
Đầu tiên, bên tai của người lâm
chung, hãy gọi tên của anh hay cô ấy ba lần. Sau đấy, nói rằng, “Này [tên người
đó], hãy hoàn toàn chú ý đến điều tôi đang nói. Bạn đang hấp hối, nhưng đừng sợ
hãi bởi cái chết chỉ là một hiện tượng tuần hoàn của cuộc sống. Bạn cần đối
diện với mỗi sự việc của cái chết dựa trên điều tôi nói với bạn”.
Khi đang hỗ trợ trong sự trì tụng
cho người lâm chung, người ta cần nói to và lặp lại bên tai người lâm chung về
quá trình của trạng thái trung gian và cách thức thực hành. Giọng nói cần phải
to nhất có thể bởi mọi giác quan của người lâm chung sắp ngừng hoạt động. Nếu
giọng quá thấp hay quá xa, nó có thể không được nghe thấy. Chúng ta cũng có thể
bắt chước vài đạo sư trong quá khứ, những vị đã nói qua ống gắn vào tai của
người lâm chung. Mục đích của việc làm như vậy có lẽ một mặt là để đảm bảo rằng
những chỉ dẫn có thể được nghe thấy và mặt khác, để ngăn những người xem thông
thường khỏi việc nghe được những chỉ dẫn này và đảm bảo tính bí mật của các thực
hành Đại Viên Mãn Dzogchen.
Thời xưa, trao truyền Dzogchen bị kiểm
soát nghiêm ngặt. Nó luôn được tiến hành trên nền tảng một-một và không bao giờ
hơn bảy hay tám người một lần. Trao truyền cũng được tiến hành bằng cách thì
thầm qua ống vào tai của người thọ nhận – do đó được gọi là trao truyền thì thầm
bên tai.
Nó cũng như thể một vị vua hay một
người có thẩm quyền yêu cầu ai đó trao tận tay một thông điệp. Người sứ giả sẽ
làm mọi điều có thể để truyền thông điệp đến đúng địa điểm hay đúng người, một
cách chắc chắn. Trong trường hợp Phowa, người lâm chung vào thời điểm giữa sống
và chết sẽ chắc chắn lắng nghe cẩn thận và tuân theo những chỉ dẫn về lối đi
trong trạng thái trung gian và cách đối mặt với nó.
7. Cách thức tái sinh trong trường hợp khẩn cấp
Khi gặp phải những tình huống bất
ngờ, chẳng hạn động đất, sóng thần hay tai nạn ô tô, người ta cần sử dụng đường
tắt để đảm bảo tái sinh trong Tịnh độ: Hãy quán tưởng Đức Phật, chư Bồ Tát và đạo
sư an tọa trên đỉnh đầu và hết sức tập trung vào đỉnh đầu. Phương pháp đơn giản
này, cũng là dễ dàng nhất, có thể giúp bạn đạt được sự tái sinh tốt lành.
Việc các đệ tử Kim Cương thừa hay
người Tây Tạng thông thường cầu khẩn đến Đức Liên Hoa Sinh, Phật Thích Ca Mâu
Ni hay đạo sư của riêng họ bất cứ khi nào họ sợ hãi, thậm chí khi họ ngất đi,
là chuyện phổ biến. Đây là một thói quen rất đơn giản mà cũng có thể tạo ra
nhiều lợi lạc; vì thế, chúng ta cần làm vậy. Ví dụ, người ta có thể tạo thói
quen gọi và cầu nguyện Phật A Di Đà bất cứ khi nào thuận tiện để khi thời khắc then
chốt xảy ra, tâm sẽ đến với Phật A Di Đà một cách bản năng.
Mặt khác, một cách tốt hơn để những hành
giả tiếp tục đến đời tiếp sau là nhờ rèn luyện trong thiền định.
Chúng ta không nên sợ hãi hay thờ ơ
cái chết. Hãy từ bỏ hai thái cực này và đối mặt với cái chết với tâm thế điềm
tĩnh và an bình và nỗ lực nâng cuộc đời chúng ta lên một mức độ khác trong quá
trình chết.
III. NHỮNG ĐIỂM THEN CHỐT VỀ TRÌ
TỤNG CHO NGƯỜI CHẾT
Các Phật tử cần có tinh thần đồng
đội, giúp đỡ và chăm lo cho nhau. Giúp trì tụng lời cầu nguyện vào lúc chết
chính là sự giúp đỡ cuối cùng và tốt nhất.
Ngày nay, một số nhóm Phật tử cũng
đang thúc đẩy ý tưởng này và thiết lập những nhóm tiến hành trì tụng riêng
biệt. Đó là một sự giúp đỡ hữu ích và cần thiết với tất cả. Chúng ta đều cần phản
ứng một cách tích cực với hoạt động này.
1. Tiểu chuẩn của người trì tụng
Có ba tiêu chuẩn với những người
tiến hành trì tụng:
a) Sự trì tụng cần được tiến hành vì
lòng từ và bi chứ không phải để khoe khoang khả năng giao tiếp với Phật A Di Đà,
[khả năng] hỗ trợ người đã khuất được tái sinh trong cõi Tịnh độ hay bất kỳ ý
định tương tự để chứng minh sự ưu việt của bản thân. Tiến hành sự trì tụng với
sự kiêu ngạo hay ý định khoe khoang thì đơn giản là sai lầm. Hơn thế nữa, trong
quá trình tang lễ, người ta phải lặp đi lặp lại việc nhắc nhở bản thân phát
khởi lòng từ và bi, thậm chí sự phát khởi mang tính tạo tác cũng có thể chấp
nhận được bởi thiếu lòng từ và bi, không có cách nào để giúp đỡ người đã khuất tái
sinh cát tường. Đây là một điểm rất quan trọng cần lưu ý.
b) Người ta phải tin tưởng vững chắc
rằng cả nghi quỹ và nghi thức được cử hành đều có sức mạnh dẫn dắt người đã
khuất đến sự tái sinh cát tường. Nếu không, làm sao mà người đã khuất có thể
được lợi lạc từ những hành động này khi mà ngay cả người cử hành vẫn còn các
nghi ngờ?
c) Trong quá trình trì tụng cho
người đã mất, người ta cần cầu nguyện với niềm tin thanh tịnh hướng về Phật A
Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Thích Ca Mâu Ni hay những vị Phật khác để đưa người
đã khuất đến cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà. Hãy quán tưởng thần thức của người
đã khuất rời khỏi thân thể anh hay cô ấy và nhập vào tim Phật A Di Đà. Hãy chắc
chắn tập trung hoàn toàn vào sự quán tưởng từ đầu đến cuối.
Các bản văn tuyên bố rõ ràng rằng chúng
sinh trong cõi trung gian được phú bẩm sức mạnh diệu kỳ, điều cho phép họ đọc
được tâm của những vị cử hành tang lễ. Nếu những người này vô ý vô tứ, thờ ơ,
hay tệ hơn, ngập tràn tham, sân và si, chúng sinh trung ấm sẽ hình thành sự thù
ghét với họ. Và sự thù ghét đó sẽ khiến cho những chúng sinh trung ấm tái sinh
trong cõi địa ngục. Vì vậy, điều quan trọng là có lòng từ và bi khi tiến hành
trì tụng cho người chết. Hơn thế nữa, nó cần được tiến hành với sự chú tâm
nhiệt thành, không chút giả tạo hay lơ đễnh.
Lý do là thiếu tỉnh thức trong lúc ngồi
thiền định không chỉ ảnh hưởng đến sự hành trì của bản thân mà nó còn gây ra tác
động tiêu cực với những người khác khi trì tụng cho người chết.
Nếu ba tiêu chuẩn này được đáp ứng
thì người ta đủ phẩm tính trở thành thành viên của nhóm trì tụng dẫu cho họ
không có bất kỳ công đức nào khác từ sự hành trì Giáo Pháp. Tuy nhiên, nếu ai
đó đã vi phạm thệ nguyện gốc và từ chối sám hối trong vòng hơn ba năm, tốt hơn
là không tham gia nhóm trì tụng bởi lực tiêu cực đi kèm với việc phá vỡ các thệ
nguyện gốc thực sự ảnh hưởng đến người khác ở một mức độ nhất định.
2. Cách thức xử lý thân thể và tài sản của người chết
Nếu gia đình đồng ý, hãy đến nhà của
người đã khuất để tiến hành trì tụng; nếu không, hãy đưa thân thể đến một ngôi
chùa và tiến hành trì tụng ở đó. Nếu cả hai đều không thể, tốt nhất là rời khỏi
thị trấn và đến nơi mà người khác sẽ không bị làm phiền, tìm một ngôi nhà hay
phòng thích hợp và chuẩn bị một bàn thờ đơn giản bên trong. Sau khi hoàn thành
trì tụng, hãy di chuyển thân thể đi hỏa thiêu.
Tốt hơn là không hỏa thiêu thân thể
trong ba ngày đầu tiên. Nếu có thể, các thành viên của nhóm trì tụng có thể luân
phiên tụng danh hiệu của chư Phật và Mật chú không gián đoạn trong trọn ba ngày
hay càng lâu càng tốt. Hãy đắp chăn đà-ra-ni lên thân thể và đặt những đồ hình
khác nhau, thứ đại diện cho đàn tràng của chư Phật, thứ có thể được hỏa thiêu
cùng với thân thể.
Nếu người đã khuất đeo mề đay chứa
đựng một bản văn Mật điển (Takdrol – giải thoát nhờ đeo), hãy đặt nó lên trên
luân xa tim của anh hay cô ấy và hỏa thiêu cùng với thân thể. Hãy đảm bảo không
dùng nó cho mục đích cá nhân bởi đó được xem là một hành động sai lầm nghiêm
trọng. Các bản văn Dzogchen tuyên bố rõ ràng rằng tất cả những vật bảo vệ được mang
theo bởi người đã khuất phải được hỏa thiêu cùng thân thể.
3. Thời điểm tốt nhất để tiến hành trì tụng cho người chết
Khi một người sắp ngừng thở, anh hay
cô ấy sẽ thở mạnh ra nhưng không hít vào. Điều này chỉ ra rằng người đó sẽ sớm
qua đời và tốt nhất là trao cho anh hay cô ấy một ít thuốc cam lồ gia trì vào
lúc này. Nếu người đó vẫn hít vào và thở ra, điều đó nghĩa là cái chết sắp xảy
đến, ít nhất là không tức thì. Các bản văn Mật thừa nói rằng khi một người
ngừng thở, máu trong động mạch và tĩnh mạch sẽ đi vào mạng mạch. Khi ba giọt
máu lần lượt vào tim, người đó sẽ thở ra thật mạnh một lần sau mỗi giọt. Sau
đấy, hơi thở sẽ ngừng lại hoàn toàn.
Khuôn mặt của những người bình phàm,
vị không tiến hành bất cứ thực hành nào lúc còn sống, sẽ chuyển sang màu xanh
xao của cái chết ngay sau khi ngừng thở. Từ thời điểm mà thị giác và thính giác
ngừng vận hành đến thời điểm trước khi ngừng thở hoàn toàn là thời gian tốt
nhất để trì tụng và tiến hành Phowa.
4. Cách tiến hành trì tụng cho người chết
Khi trì tụng, đừng đứng bên chân của
người đã khuất bởi nó sẽ dẫn dắt sự tập trung của người ta xuống phía dưới,
điều thường ảnh hưởng đến sự tái sinh theo hướng tiêu cực. Khi một người sắp
ngừng thở, chúng ta cần đứng phía đỉnh đầu của người đó, tức là phía Bắc, liên
tục kéo tóc ở đỉnh đầu, vỗ nhẹ vào đầu và nói lớn tiếng với người đã khuất,
“Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Bi, đang ở trên đỉnh đầu bạn. Hãy thành tâm cầu nguyện
đến Ngài. Bạn sắp ra đi rồi. Hãy tập trung mọi sự chú ý vào đỉnh đầu mà từ đó
bạn sẽ ra đi”. Nếu một người đã chết từ lâu, tất cả những điều này không còn
hữu dụng.
Khi sự trì tụng được tiến hành vì
những người không có niềm tin, chúng ta có thể trì tụng danh hiệu của Phật Bảo
Kế Thi Khí “Nam Mô Bảo Kế Thi Khí Phật” hay các danh hiệu khác nhau của Phật
“Nam Mô Thiện Thệ, Chính Biến Tri, Ứng Cúng … Như Lai Bảo Kế Thi Khí” bởi đại
nguyện của Ngài khác với những vị Phật khác. Ngài phát nguyện rằng: Cầu mong
mọi chúng sinh nghe được danh hiệu của tôi thoát khỏi ba cõi thấp hơn. Vì thế,
trì tụng danh hiệu của Ngài có ý nghĩa đặc biệt.
Bên cạnh đó, trì tụng danh hiệu của
Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư và những vị Phật khác cũng như
Mật chú Đại Bi, tâm chú A Súc Bệ Phật và những Mật chú khác thì cực kỳ quan
trọng với những vị cận kề cái chết. Những sự trì tụng này chắc chắn sẽ gia trì
cho người đã khuất có được sự tái sinh cát tường.
Nếu người đã khuất là một hành giả Kim
Cương thừa, anh hay cô ấy cần được nhắc như sau, “Này [tên người đó], chẳng mấy
chốc, bạn sẽ thấy các đàn tràng của nhiều vị Phật và Bồ Tát cũng như những cảnh
tượng đáng sợ, nhưng chúng chẳng phải ma quỷ bên ngoài mà chỉ là những phóng
chiếu, những hóa hiện và bản tính của tâm chúng ta, giống như giấc mộng. Đừng
sợ hãi. Đừng nhớ mong thế giới này. Bạn cần quán tưởng tất cả những khuôn mặt giận
dữ và đáng sợ này là Quán Thế Âm hay Phật A Di Đà; thực sự, chúng là Quán Thế
Âm và Phật A Di Đà. Sau đấy, bạn chỉ cần đi theo Quán Thế Âm và Phật A Di Đà
đến Tây Phương Tịnh Độ”.
Nếu người lâm chung khá quen thuộc
với Tử Thư Tây Tạng, hãy đọc ba kiểu của Những Lời Nguyện Giải
Thoát Nhờ Nghe Trong Trạng Thái Trung Gian, điều có sẵn trong Tuệ
Quang, tập 7. Đây là bản văn hữu ích và mạnh mẽ nhất để sử dụng vào lúc
này. Sau đấy, hãy trì tụng ba hay bảy lần Lời Nguyện Cực Lạc của
Tổ Karma Chagme và cuối cùng là Phổ Hiền Hạnh Nguyện.
Trong đời sống hàng ngày, khi chúng
ta thấy trong chợ hay nơi nào đó những con vật sắp bị giết, chúng ta cần cố
gắng trì tụng danh hiệu Phật Bảo Kế Thi Khí bên tai chúng và giúp con vật nằm
về bên phải, hướng mặt về phía Tây, đầu về phía Bắc. Điều này sẽ đem lại lợi
lạc không thể ngờ cho những con vật. Mặc dù người ngoại đạo có thể không hiểu
những hành động này, họ ít nhất cũng không xem chúng là gây hại và ngăn cản.
Chúng ta cũng không nên xem tất cả
những điều này là vô nghĩa, bởi chúng được thực hành bởi chư đạo sư trong quá
khứ, vì thế chắc hẳn có lý do để làm vậy.
Chúng ta cần biết rằng phong tục
truyền thống về việc cúng hoa, tắm rửa và mặc quần áo mới cho người chết chỉ
cho thấy sự tham luyến cảm xúc của chúng ta với người đã khuất. Thực sự chẳng
có ý nghĩa nào bởi vào lúc này, thân thể của người chết, giống như một viên đá
hay bùn, không còn có thể cảm thấy gì nữa. Nếu chúng ta muốn trao cho người đã
khuất món quà ý nghĩa cuối cùng cho hành trình cuối cùng của họ, đó phải là sự
trì tụng, điều đơn giản và dễ tiến hành nhưng lại có lợi lạc lớn lao. Nếu người
đã khuất từng thọ nhận kiểu rèn luyện nào đó trong đời và có sự giúp đỡ của các
đạo hữu vào thời điểm quan trọng này, họ chắc chắn sẽ có thể tái sinh cát tường.
Hãy giữ điều này trong tâm.
Nguồn Anh ngữ: Khenpo Tsultrim Lodro
Rinpoche, On Death and Rebirth – How to Face Death (https://www.luminouswisdom.org/index.php/publications/the-handbook-for-life-s-journey/2096-on-death-and-rebirth-how-to-face-death).
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.
[1]
Theo Rigpawiki, Khenpo Tsultrim Lodro là một trong những đạo sư quan
trọng nhất hiện sống ở Tây Tạng. Là Pháp tử chính yếu của Khenpo Jigme
Phuntsok, Ngài giảng dạy ở Larung Gar.
[2]
Theo Rigpawiki, Phowa là thực hành chuyển di thần thức vào lúc chết,
hoặc cho bản thân hoặc cho chúng sinh khác. Thần thức có thể được chuyển tới bản
tính Pháp thân, tới cõi Tịnh Độ chẳng hạn cõi Tây Phương Cực Lạc hay tới một sự
tồn tại thuận lợi trong cõi người. Thực hành này là một trong Sáu Pháp Du Già
Của Naropa, nhưng cũng được tìm thấy trong rất nhiều truyền thừa và hệ thống giáo
lý khác, bao gồm Longchen Nyingtik và Namcho. Mặc dù nó cũng nằm trong điều được
gọi là "năm thực hành giác ngộ không thiền định," nó thực sự đòi hỏi
một sự rèn luyện kỹ lưỡng trước khi có thể phát huy tác dụng. Hơn thế nữa, các giáo
lý cũng khuyên rằng Phowa cho chúng sinh khác chỉ nên được thực hiện bởi vị đã
đạt tới con đường của sự thấy!
[3]
Theo Khenpo Sodargye, Đấng Toàn Tri Longchenpa hay Longchen Rabjam
(1308-1363) được tất cả các truyền thừa Phật giáo ở Xứ Tuyết [Tây
Tạng] công nhận là một trong ba hóa hiện của Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi. Là một bậc thầy với ân phước gia trì tối thắng, Ngài
đã có những đóng góp lớn lao cho trường phái Nyingma của Phật giáo Tây
Tạng trong khi hiện thân công đức của các học giả, hành
giả và thành tựu giả vĩ đại. Ngài đã nghiên cứu các
bản văn Hiển giáo và Mật giáo trong suốt cuộc đời, và
là tác giả của rất nhiều giáo lý về Kinh thừa và
Mật thừa. Hành giả Phật giáo có lòng sùng mộ chí thành
với Tổ Longchenpa sẽ nhận được sự gia trì siêu việt, giúp họ trong
việc nghiên cứu và trau dồi Giáo Pháp, cũng như trong việc
trao truyền giáo lý, quán đỉnh và chấp nhận học
trò. Rất nhiều đạo sư của truyền thừa Nyingma đã đạt
các thành tựu nhờ việc thọ nhận ân phước gia trì của Tổ
Longchenpa. Bởi thế, hành giả Phật giáo cần nghiên cứu các tác
phẩm của Ngài một cách nghiêm túc, không ngừng đỉnh lễ Ngài
và cầu khẩn ban phước gia hộ.