Chàng không
biết Faith có nghe lời chàng hay không. Nói xong chàng thấy mình đang ở giữa đêm đen tĩnh mịch,
đang lắng nghe tiếng gió gầm gừ, nặng nề tan biến vào khu
rừng. Chàng loạng choạng tựa vào
tảng đá, và cảm thấy nó vừa lạnh vừa ẩm; khi ấy một cành cây nãy
giờ vẫn cháy rắc lên má chàng những hạt sương lạnh giá.
Sáng hôm sau
chàng thanh niên Goodman Brown chậm chạp đi trên con đường
làng Salem, trừng mắt nhìn chung quanh chàng như kẻ thất
thần.Vị giáo sĩ già hiền từ đang thả bộ dọc theo nghĩa địa để ăn
sáng thấy ngon miệng hơn, vừa đi ông vừa nghiền ngẫm bài giảng của
mình; khi đi ngang, ông làm dấu ban phước lành cho Goodman
Brown. Chàng vội vàng tránh vị khả
kính thánh thiện ấy như tránh kẻ mình không ưa. Vị phó tế Gookin
đang hành lễ trong một nhà dân, và người ta có thể nghe những lời cầu nguyện hiền lành của ông vang ra từ cửa sổ. Goodman Brown nói: “Tên phù thủy đó cầu
nguyện Thượng đế nào thế?” Goody Cloyse,
tín hữu Ky Tô già xuất chúng,
đang đứng dưới nắng sớm nơi khung mắc cáo, giảng giáo lý
cho cô bé đem bình sữa sáng đến cho bà.
Goodman Brown liền kéo đứa bé đi như thể kéo nó ra khỏi bàn tay ma quỷ. Khi chàng rẽ vào góc đường cạnh bên nhà tụ họp
dân làng, chàng nhìn thấy mái đầu của Faith, với những dây nơ hồng,
đang lo lắng nhìn về phía trước, và khi thấy bóng chàng, nàng vui
mừng quá, liền chạy nhanh ra ngoài đường và suýt nữa nàng đã hôn chàng
trước mặt làng xóm. Nhưng Goodman Brown nhìn vào mặt nàng một cách
thật ghiêm khắc và buồn bã, rồi đi tiếp mà không chào hỏi nàng gì
cả.
Phải
chăng Goodman Brown đã ngủ quên trong rừng và chỉ nằm mơ một giấc mơ
ngông cuồng về buổi họp mặt của các phù thủy?
Nếu bạn đọc
muốn, xin cứ nghĩ như vậy; nhưng trời ơi, đối với Goodman Brown đó lại là một giấc mơ về
điềm xấu xa tàn ác.
Kể từ đêm nằm mộng thấy điều kinh hoàng đó, chàng bỗng trở
thành một người nghiêm khắc, buồn bã, trầm tư một cách bí hiểm, một
người không tin ai, nếu không muốn nói là tuyệt vọng. Vào ngày Sa bát, khi cộng đoàn đang hát
bài thánh ca, chàng không thể lắng nghe được bài hát ấy vì một bài
đầy tội lỗi khác đã ùa vào tai chàng làm át cả âm điệu thánh
ca. Khi vị giáo sĩ từ trên bục cất
tiếng giảng đạo hùng hồn, đầy nhiệt huyết, tay đặt trên quyển Thánh
kinh đang mở ra, rao giảng về những sự thật thiêng liêng của tôn giáo
chúng ta, về cuộc đời của các vị thánh sống và cái chết của các vị
tử đạo, về tương lai tràn đầy ân phúc hay khốn khổ cùng cực, thì Goodman
Brown mặt mày tái xanh, nơm nớp lo sợ mái nhà sẽ đổ sập xuống đầu
kẻ phỉ báng Chúa già nua kia cùng đám người đang ngồi nghe. Nửa đêm Goodman Brown thường bất ngờ
thức dậy, tránh né người vợ của mình; và vào buổi sáng hay
chiều tối, khi cả nhà quỳ gối cầu nguyện, chàng lại cau mày, lầm
bầm trong miệng, nhìn vợ một cách nghiêm khắc, rồi quay đi. Đến cuối đời, khi chỉ là một xác chết già
nua được người ta đem đi mai táng, theo sau
là Faith, một người đàn bà luống tuổi, cùng lũ con cháu –một
đám tang khá trang nghiêm, có vài người hàng xóm tháp tùng – người ta
không hề khắc lên bia mộ của Goodmn Brown một lời hy vọng nào vì ông qua
đời vào giờ quỷ ám.
1835