The Buddhist Pali sutras (suttas) mention three parts in Buddhist practice: morality, concentration and wisdom. Morality is a stable foundation upon which to attain samatha. Samatha and vipassana form an integral part of mindful breathing, which leads the practitioner into concentration. The senses are subdued and the mind abides in uninterrupted concentration upon the breath. It is the condition for the development of wisdom.
Two paramount mental qualities arise from meditative practice:
- Samatha (calm abiding, serenity) is the Buddhist practice of calming the mind (citta) and its 'formations' (sankhara). This is done by practicing single-pointed meditation most commonly through mindful breathing;
- Vipassanā (insight) is the Buddhist practice in which mindfulness of breathing, thoughts, feelings and actions enables one to discern "formations" (conditioned phenomena based on the five aggregates), and gain insights into the true nature of reality.
Vipassanā can be cultivated by the practice that includes contemplation, introspection and observation of bodily sensations, analytic meditation and observations on life experiences like death and decomposition. The practices may differ in the modern Buddhist traditions and non-sectarian groups according to the founder but the main objective is to develop insight.
In the Four Ways to Arahantship Sutta (AN 4.170), Ven.Ananda reports that people attain arahanship using calm abiding and insight in one of three ways:
- They develop calm abiding and then insight (Pāli: samatha-pubbangamam vipassanam)
- They develop insight and then calm abiding (Pāli: vipassana-pubbangamam samatham)
- They develop calm abiding and insight in tandem (Pāli: samatha-vipassanam yuganaddham), for instance, obtaining the first jhāna, and then seeing in the associated aggregates the three marks (seals) of existence (anicca/impermanence, dukkha/sufferings,unsatisfactories, and anatta/no-self) before proceeding to the second jhāna.
When [the Pāli suttas] depict the Buddha telling his disciples to go meditate, they never quote him as saying 'go do vipassana,' but always 'go do jhana.' And they never equate the word "vipassana" with any mindfulness techniques. In the few instances where they do mention vipassana, they almost always pair it with samatha — not as two alternative methods, but as two qualities of mind that a person may 'gain' or 'be endowed with,' and that should be developed together. Thanissaro Bhikkhu
Some traditions speak of two types of meditation, insight meditation (vipassana) and calm meditation (samatha). In fact the two are indivisible facets of the same process. Calm is the peaceful happiness born of meditation; insight is the clear understanding born of the same meditation. Calm leads to insight and insight leads to calm." Ajahn Brahm
The Thai Forest tradition stresses the inseparability of samatha and vipassana, and the essential necessity of both practices.
Sources:
HỌC TẬP BA PHÁP TU CỦA KINH VIÊN GIÁC
Nguyễn Thế Đăng
Nguyễn Thế Đăng
Kinh nói tất cả chúng ta đang ở trong
pháp tánh, hay tánh Không, Chân Như, tánh Giác… dù chúng ta có biết hay không,
có tu hay không, có thường nhớ nghĩ đến nó hay không. Pháp tánh ấy không ngăn
ngại chúng ta, trái lại nó luôn luôn hiện tiền, toàn khắp. Chỉ có vô minh vọng
tưởng phân biệt của chúng ta chia chẻ “pháp giới Một Tướng” thành một thế giới
chia cách, mâu thuẫn, xung đột của riêng mỗi chúng ta, mà chúng ta gọi là thế
giới sanh tử.
Để
thế giới sanh tử do chính mình tạo dựng hoàn nguyên lại thế giới Một Tướng,
chúng ta có những pháp thực hành để chuyển hóa tâm thức của mình. Ví dụ Chỉ hay Định là
sự lắng sâu, chìm sâu, đi sâu vào pháp tánh hay bản tánh của tâm, cái này vốn
sẵn hiện diện thường xuyên bao bọc chúng ta. Dần dần chúng ta đạt đến một cái
biết trong đó không có sự phân chia giữa chủ thể và đối tượng, không có sự chia
cắt giữa con người và thế giới. Điều này ý thức không thể làm được vì ý thức
bao giờ cũng là ý thức về cái gì (Edmund Husserl), do đó ý thức là sự chia cách
căn bản giữa một chủ thể và một đối tượng. Nói cách khác, ý thức chỉ tồn tại và
hoạt động trong sự phân chia giữa chủ thể và đối tượng, giữa tâm và cảnh. Ý
thức là tác nhân tạo ra một thế giới phân mảnh. Đó là chưa kể đến theo vật lý
học hiện đại, người quan sát ảnh hưởng đến vật thể được quan sát, thì khoa học
cũng không thể nào xóa bỏ được vực thẳm ngăn cách giữa người quan sát và vật
thể được quan sát. Ngược lại, Định đưa đến một cái biết không
phân chia giữa chủ thể và đối tượng, giữa phần tử này và phần tử khác, một cái
biết toàn thể, đó là sự bắt đầu của trí huệ.
Trong
pháp giới Một Tướng, không có vấn đề đốn hoặc tiệm, nhanh hoặc chậm, tức thời
hoặc tiến theo thứ lớp. Vấn đề đốn hoặc tiệm, tức thời hoặc tiến theo thứ lớp
là do vô minh nghiệp thức của chúng ta nhiều hay ít, sự phá tan vô minh che
chướng ấy nhanh hay chậm. Nhưng vô minh thì có thể phá tan được vì vô minh là
duyên sanh hợp tạo, ngoại sanh, hiện hữu tạm thời (vô thường), không có thật
tánh (vô tự tánh, Không), không có bản thể riêng (vô ngã) và là nguyên nhân
khởi thủy của khổ đau (khổ).
Kinh
Viên Giác nói về vô minh:
“Sao
gọi là vô minh? Thiện nam tử, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay có đủ thứ
điên đảo, như người mê lầm lộn bốn phương, vọng nhận bốn đại làm tướng
thân mình, những hình ảnh âm thanh… duyên theo sáu trần làm tướng tâm mình. Ví
như người bị bệnh mắt kia, thấy trong hư không có hoa đốm hoặc thấy có mặt
trăng thứ hai. Thiện nam tử! Hư không thật ra không có hoa đốm, đó chỉ là vọng
chấp của người bệnh mắt. Do vọng chấp ấy nên không những chỉ mê muội không biết
tự tánh của hư không (tánh Không) mà lại còn mê lầm là hoa kia có thật sanh ra.
Do cái có hư vọng này mà có sanh tử luân chuyển, nên gọi là vô minh.
Thiện
nam tử! Cái vô minh này không có thật thể, như người trong mộng, khi đang mộng
thì chẳng phải không có, đến lúc tỉnh dậy thì mới biết là chẳng có gì cả. Như
các hoa đốm diệt mất giữa không trung, không thể nói rằng hoa kia có chỗ diệt
mất. Vì sao thế? Vì đã không từng có chỗ sanh ra vậy.” (Chương Văn Thù).
Sự
thực hành Đại thừa khởi phát và dựa trên niềm tin trực tiếp vào pháp tánh. Tin
vào chính pháp tánh là tin rằng pháp tánh ấy có mặt ở bất cứ thời gian không
gian nào (châu biến), rằng chúng ta có ở đâu, có làm gì thì chúng ta cũng chưa
từng cách hở rời lìa pháp tánh ấy một mảy may. Pháp tánh ấy không vì chúng ta
khởi sanh thiền định thiền quán mà nó có sanh, không vì chúng ta thôi thiền
định thiền quán mà nó có diệt (không sanh không diệt). Pháp tánh ấy không vì sự
thấy nhiều thấy ít, chứng nhiều chứng ít của chúng ta mà có tăng có giảm. Pháp
tánh ấy không vì sự tịnh hóa điên đảo vọng tưởng được nhiều hay ít, sự phá trừ
phiền não chướng và sở tri chướng của chúng ta được nhiều hay ít mà có sạch có
dơ.
Chính
trên nền tảng pháp tánh này mà mọi pháp môn thực hành được thiết lập.
Sau
đây chúng ta nghiên cứu ba pháp môn căn bản được nói trong chương Oai
Đức Tự Tại, Kinh Viên Giác. Mục tiêu của ba pháp môn ấy là trực
tiếp thấy và chứng ngộ pháp tánh, hay thật tướng của tất cả các pháp, đồng thời
giải tan những che chướng vô minh đang chướng ngại chúng ta với thực tại tối
hậu ấy. Ba pháp môn này phối hợp với nhau, tùy theo căn cơ khuynh hướng của mỗi
chúng ta, mà thành 25 pháp tu.
1. Chỉ hay Định
“Thiện
nam tử! Nếu các Bồ-tát ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh, thì dùng lấy cái tâm
giác thanh tịnh này mà giữ cái hạnh tĩnh lặng. Do lắng các niệm nên biết cái
thức là phiền nhiễu loạn động, trí huệ tĩnh lặng hiện ra, thân tâm là khách
trần từ đây vĩnh viễn diệt mất. Lúc bấy giờ bên trong tịch tĩnh trong nhẹ và
bình an khai phát. Do tịch tĩnh này nên tâm của chư Như Lai khắp mười phương
thế giới hiển hiện trong ấy như bóng hiện trong gương.
Phương
tiện này gọi là Xa-ma-tha (Samatha)”. Chúng ta trích thêm đoạn “Riêng tu một
pháp Xa-ma-tha” trong chương Biện Âm:
“Nếu
các Bồ-tát chỉ dùng cực tĩnh, do sức tĩnh lặng mà vĩnh viễn đoạn trừ phiền não
được thành tựu rốt ráo, chẳng rời khỏi chỗ ngồi mà chứng ngộ Niết-bàn. Bồ-tát
tu như vậy gọi là chỉ tu một pháp Xa-ma-tha”.
Vì
pháp tánh là tịch diệt, nên để tương ưng với sự tịch diệt của pháp tánh, hành
giả phải giữ tâm tĩnh lặng. Vì pháp tánh là vô sanh, nên để thấu rõ pháp tánh,
tâm hành giả phải không sanh các ý tưởng, làm bình lặng các niệm tưởng. Đây là
pháp môn Chỉ, hay Thiền Định.
Theo
Đại Ấn của phái Kagyu Tây Tạng, những bằng chứng đi vào Chỉ hay Định là sự sáng
tỏ, vô niệm, và an lạc. Miễn là người ta không lạc vào, không dừng lại một
trong ba điều này xem chúng như là mục tiêu đã đạt được, mà tiếp tục xuyên qua
những tấm màn che, thì cuối cùng người ta đạt đến pháp tánh hay tánh Không.
Pháp tánh hay tánh Không thì thường sáng tỏ, thường vô niệm, thường an lạc.
Chỉ
hay Định là lắng yên các niệm, vượt khỏi các phiền nhiễu loạn động, những ý
niệm của thân tâm chỉ là những bụi bặm từ bên ngoài đến (khách trần phiền não)
để an trụ thật sâu bên trong những chiều sâu của tâm mình. Tâm càng an trụ,
càng tịch tĩnh thì người ta càng chứng nghiệm được tâm của tất cả chư Như Lai
(hay Pháp thân của chư Như Lai) hiện ra trong ấy như bóng hiện trong gương, như
mặt trăng hiện ra trong nước đứng lặng. Tận cùng sự tịch tĩnh của tâm mình là
tâm của chư Như Lai, một cái tâm toàn thể, không phân chia và trùm khắp mà kinh
điển gọi là Pháp giới Một Tướng. Bằng pháp Chỉ, người ta có thể chứng nghiệm
tâm mình và tâm của chư Như Lai là một.
Chỉ
hay Định là tập trung để đi sâu vào chính pháp tánh hay tánh Không “vốn tự tịnh
tự định” này, và không bị những ý tưởng thô hay tế làm xao lãng. Quá trình đi
vào Chỉ hay Định là một quá trình vượt lên khỏi những đám mây tư tưởng, từ thô
đến tế, cho đến khi ra ngoài không gian, nơi không còn một cái gì làm ô nhiễm
được. Điều nàyKinh Lăng Già gọi là “vượt khỏi tâm, ý, ý thức”.
Nhưng trong quá trình vượt lên ấy, người ta luôn luôn biết rằng dù có mây hay
không mây, mây ít hay mây nhiều, thì đó vẫn chính là không gian. Mây chỉ là
những che lấp, những che chướng tạm thời và vô thường, còn không gian thì mãi
mãi vẫn vậy.
Lấy
một ví dụ về Định từ Kinh Kim Cương. Chỉ hay Định là an trụ sâu vào
pháp tánh hay tánh Không mà không xao lãng. Pháp tánh hay tánh Không thì không
chỗ trụ, nên trụ vào pháp tánh hay tánh Không nghĩa là trụ vào cái không chỗ
trụ: “hãy trụ tâm vào cái không chỗ trụ” (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). Như
vậy người ta đi dần vào pháp tánh hay tánh Không vốn không chỗ trụ.
2. Quán
“Thiện
nam tử! Nếu các Bồ-tát ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh, dùng cái tâm giác
thanh tịnh này quan sát thức, căn, trần đều là huyễn hóa, bèn khởi cái trí biết
các huyễn để trừ các huyễn. Ứng hiện các việc làm như huyễn để khai thị cho
chúng sanh như huyễn. Do thấy là huyễn mà bên trong đại bi trong nhẹ và
bình an khai phát.
Tất
cả các Bồ-tát từ việc khởi hạnh quán huyễn này mà dần dần tăng tiến. Người quán
huyễn kia ban đầu chẳng đồng với cảnh huyễn, cũng chẳng đồng với sự quán huyễn,
sau rồi cả ba, người quán, cảnh được quán và hành động quán đều đồng là huyễn.
Các tướng huyễn được vĩnh viễn xa lìa. Sự thực hành kỳ diệu của các Bồ-tát như
đất làm cho mầm mộng tăng trưởng.
Phương
tiện này gọi là Tam-ma-bát-đề (Samapatti)”. Chương Biện Âm nói:
“Nếu các Bồ-tát chỉ quán như huyễn, dùng Phật lực biến hóa ra đủ thứ tác dụng
của thế giới, làm đầy đủ các diệu hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, mà trong Tổng trì
chẳng mất niệm tịch diệt và các huệ tĩnh lặng, Bồ-tát như vậy gọi là chỉ tu một
pháp Tam-ma-bát-đề”.
Khi
nhìn lại những biến cố vui buồn lớn lao trong quá khứ, chúng ta thấy chúng
không còn có thể nắm bắt (bất khả đắc); chúng như một giấc mộng đã qua, như một
trải nghiệm huyễn ảo. Nhưng đạo Phật chỉ cho chúng ta ngay hiện tại đây, những
trải nghiệm cũng chỉ là như mộng như huyễn. Thực hành như huyễn như vậy (ba cõi
duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức), không phải để chán đời, để rơi vào
thái độ hư vô chủ nghĩa. Thực hành quán sát vô thường, như huyễn như vậy là để
xa lìa vô thường, như huyễn và đạt đến, an trụ vĩnh viễn trong tánh Viên Giác
“vốn chẳng phải huyễn, vốn bất diệt. Ví như lau gương, bụi hết thì tánh sáng tự
hiện bày. Phải biết thân tâm đều là huyễn, như bụi dơ, khi tướng dơ đã vĩnh
viễn diệt mất thì mười phương đều thanh tịnh”(Chương Phổ Nhãn).
Tóm
lại, quán huyễn là để giải tan các tướng huyễn đang che lấp tánh Viên Giác vốn
có của chúng ta. Các tướng huyễn càng được nhận ra thì càng tiêu tan và tánh
Viên Giác phi huyễn và bất diệt càng hiện bày.
Ở
đây chúng ta trích một đoạn trong chương Phổ Nhãn để biết về
một phương pháp quán huyễn:
“Thiện
nam tử! Các Bồ-tát mới học và chúng sanh đời mạt thế muốn cầu tâm Viên Giác
thanh tịnh của Như Lai, phải nên chánh niệm, xa lìa mọi tướng huyễn. Trước hết
nương vào hạnh Tĩnh của Như Lai, kiên trì giới cấm, sắp xếp hoàn cảnh chung
quanh cho yên ổn, ngồi yên nơi tĩnh thất, thường khởi niệm như vầy: Cái thân
của ta đây do bốn đại đất nước lửa gió hòa hợp mà có. Tóc, lông, móng, răng, da
thịt, gân xương, tủy não… các vật thể dơ bẩn, đều thuộc địa đại; nước miếng,
nước mắt, mồ hôi, máu, tinh khí, đại tiểu tiện… là thuộc về thủy đại; sức nóng
trong thân thuộc về hỏa đại; hơi thở, các chuyển động trong thân thuộc về phong
đại. Nếu bốn đại lìa nhau, bấy giờ cái thân hư vọng này hiện hữu ở chỗ nào? Bèn
biết thân này rốt ráo không có thật thể, do hòa hợp mà có tướng, quả là đồng
như huyễn hóa.
Do
bốn đại giả hợp mà có ra một cách hư vọng sáu giác quan (mắt tai mũi lưỡi thân
ý). Sáu giác quan và bốn đại, trong và ngoài hợp thành, vọng có bóng dáng do
duyên sanh, tích tụ ở trong tợ như có tướng của cái duyên theo, giả gọi đó là
tâm. Thiện nam tử! Cái tâm hư vọng này nếu không có sáu trần thì không thể có
(vì chẳng có cái gì để duyên theo phân biệt cả). Cái tâm bên trong duyên theo
bóng dáng của trần (ở bên trong) đều tan diệt hết, rốt cuộc cái tâm bám níu
theo duyên không còn tìm thấy ở đâu cả.
Thiện
nam tử! Nơi chúng sanh kia vì thân huyễn diệt nên tâm huyễn cũng diệt. Vì tâm
huyễn diệt nên trần huyễn cũng diệt. Vì trần huyễn diệt nên sự việc các huyễn
tiêu diệt cũng tịch diệt. Vì sự việc các huyễn tiêu diệt cũng tịch diệt nên cái
chẳng phải huyễn vốn bất diệt (hiện ra). Ví như lau gương, bụi hết thì tánh
sáng của gương tự hiện bày. Thiện nam tử! phải biết thân tâm đều là bụi dơ
nhưng hư huyễn khi tướng dơ đã vĩnh viễn diệt mất thì mười phương đều thanh
tịnh (vì đều là tánh Giác quang minh thanh tịnh). Ví như bảo châu ma-ni thanh
tịnh, tùy mỗi phương mà chiếu hiện ra năm màu. Những người vô minh không biết
nhìn ngọc ma-ni kia, cho là ngọc ma-ni có thật năm màu (đây là phương diện
Chiếu của tánh Giác)”.
Khi
nhờ quán mà thấy được thân tâm mình là giả hợp như huyễn thì tánh Viên Giác
“chẳng phải huyễn, bất diệt” hiện ra. Cũng chính do thân tâm như huyễn đó mà
mình đã tạo dựng một sanh tử như huyễn cho chính mình. Sự thực hành quán này
“như lau gương”, quán huyễn được đến đâu, bụi huyễn sạch đến đâu thì gương sáng
hiện ra đến đó, như “mầm mộng dần dần lớn lên” thành cây, và rồi cây này lớn
lên trùm hết ba cõi, để tánh Giác bày hiện trùm hết ba cõi.
Khi
thấy sự điên đảo đáng thương ấy ở nơi chính mình, rồi nhìn ra những người khác
cũng đang điên đảo đáng thương như vậy, hành giả tự nhiên phát ra đại bi khinh
an, đại bi mà giải thoát. Quán như huyễn mà khởi từ những căn bản sai lầm thì
lọt vào hư vô chủ nghĩa. Còn quán như huyễn trên những căn bản đúng thì kỳ diệu
thay, người ta hợp nhất được những đối cực, những cái tưởng chừng như đối
nghịch loại bỏ lẫn nhau, là tánh Không và đại bi, như huyễn và cứu giúp, trên
con đường Bồ-tát đạo.
Chúng
ta cũng tìm sự thực hành quán huyễn ở kinh khác, chẳng hạn Kinh Kim
Cương. Nếu ở Kinh Kim Cương, định là trụ vào cái không chỗ trụ,
thì quán là “Thấy tất cả tướng chẳng phải là tướng, tức là thấy Như Lai”. Hoặc
quán là thấy “Tâm quá khứ chẳng thể đắc, tâm hiện tại chẳng thể đắc, tâm vị lai
chẳng thể đắc”. Bài kệ chấm dứt Kinh là dạy về Quán:
Tất
cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, ảnh Như sương, như điện chớp Phải nên quán như vậy.
Như mộng, huyễn, bọt, ảnh Như sương, như điện chớp Phải nên quán như vậy.
3. Chỉ Quán song tu
“Thiện
nam tử! Nếu các Bồ-tát ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh thì y vào tâm giác
thanh tịnh này, chẳng nắm giữ sự huyễn hóa (pháp Quán) và các tướng tĩnh (pháp
Chỉ). Rõ biết thân tâm đều là ngăn ngại, còn tánh Giác sáng tỏ không phân biệt
thì không bị ngăn ngại, vĩnh viễn siêu vượt khỏi mọi cảnh giới chướng ngại và
không chướng ngại. Nó vẫn thọ dụng tướng thân tâm và thế giới ở nơi trần thế
(mà không bị ngăn che ràng buộc), như tiếng boong của chuông, tuy ở nơi chuông
mà vẫn thoát ra ngoài.
Bấy
giờ phiền não cùng Niết-bàn đều chẳng lưu ngại nhau, bên trong phát ra tịch
diệt khinh an. Đó là cảnh giới tùy thuận Diệu Giác tịch diệt: thân tâm, mình
người, hoàn toàn chẳng có; chúng sanh, thọ mạng đều là ý tưởng hão huyền.
Phương
tiện này gọi là Thiền-na (dhyana)”. Chương Biện Âm nói:
“Nếu
các Bồ-tát chỉ diệt các huyễn (không quán huyễn), không giữ lấy tác dụng (không
tĩnh chỉ), chỉ đoạn trừ phiền não. Phiền não đoạn hết bèn chứng thật tướng.
Bồ-tát này gọi là riêng tu Thiền-na”.
Thiền-na
hay Thiền dịch từ chữ Dhyana. Chữ Thiền của Thiền tông cũng chính là chữ Dhyana
này. Thiền có nghĩa là “tùy thuận”, tương ưng.
Trong
pháp môn này, hành giả không theo “tướng tĩnh” (Chỉ), là một đặc tính (tướng)
của tánh Giác. Cũng không theo quán huyễn, huyễn là một tướng khác của tánh
Giác (Quán). Mà hành giả tùy thuận hay tương ưng trực tiếp với bản tánh của
tánh Giác. Tự thân tánh Giác là vừa tịch diệt vừa chiếu soi, nghĩa là vừa Chỉ
vừa Quán, vừa Định vừa Huệ. Tương ưng với “tánh Giác sáng tỏ không phân biệt,
không bị ngăn ngại, vĩnh viễn siêu vượt khỏi mọi hình tướng ngại hay không
ngại”. Nói cách khác, tương ưng với tánh Giác, trong đó vốn không có phiền não,
sanh tử, động hay tịnh, tăng hay giảm…
Để
có thể thiết lập được sự tương ưng với tánh Giác vốn giải thoát này, tâm phải
bớt phiền não do loạn động hay do chấp các tướng là có thật. Khi có được sự
tương ưng thật sự rồi (nhất niệm tương ưng), người ta thường trực tương
ưng (niệm niệm tương ưng), thường trực an trụ càng lúc càng sâu cho đến lúc
hành giả với tánh Giác là một. Càng tương ưng, càng an trụ vào cái chân thật
(thật tướng của tất cả các pháp) thì những cái giả huyễn, những phiền não khách
trần càng rơi rụng.
Nếu
như pháp Chỉ nhắm vào sự tĩnh lặng của tánh Giác (Tịch), pháp Quán nhắm vào sự
chiếu soi của tánh Giác (Chiếu), thì Thiền nhắm trực tiếp vào tánh Giác (trực
niệm Chân Như), mà tánh Giác thì vừa Tịch vừa Chiếu.
Lục
Tổ Huệ Năng chỉ dạy rằng Chỉ (Định) và Quán (Huệ) là một trong Thiền (chương
Định Huệ), là một trong tánh Giác:
“Thiện
tri thức! Pháp môn đây lấy Định Huệ làm gốc. Đại chúng chớ mê mà nói định huệ
là riêng biệt và khác nhau. Định và Huệ là một thể, chẳng phải hai. Định là thể
của Huệ, Huệ là dụng của Định. Ngay khi là huệ thì định tại huệ. Ngay khi là
định thì huệ tại định. Nếu rõ nghĩa này, tức là Định Huệ bình đẳng mà tu. Các
người học đạo, chớ nói trước có định rồi sau phát huệ, trước có huệ rồi mới
phát định, mỗi thứ riêng biệt…
“Thiện
tri thức! Chân Như tự tánh khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe chạm biết mà
chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn thường tự tại. Thế nên Kinh nói: ‘Vẫn
thường khéo phân biệt tướng các pháp, mà trụ trong đệ nhất nghĩa (tánh Giác)
nên chẳng động’”.
Tìm
sự tương đương của Thiền ở một Kinh khác, như Kinh Kim Cương, chúng
ta thấy:
“Tất
cả các pháp là Phật pháp”, “Như Lai là nghĩa Như của tất cả các pháp”…Thiền là
trực tiếp thấy và thâm nhập sự thật của giác ngộ là“tướng tức là tánh”,“tánh
tướng bất nhị”, “tất cả sóng là nước”, “tất cả bóng là gương”…
Tóm
lại, Chỉ là lìa các tướng và tưởng để đi sâu vào tánh Không. Quán là thấy các
tướng và tưởng là như huyễn để tánh Không hiễn lộ. Chỉ Quán song tu là ngay nơi
tướng và tưởng mà thấy tánh Không của tất cả các tướng và tưởng.
Ba
pháp ấy, hoặc một hoặc hai hoặc ba, chuyển đổi lẫn nhau theo thứ tự trước sau
tạo thành 25 pháp tu của Kinh Viên Giác. Mỗi người chúng ta cần tùy
theo khuynh hướng của mình mà thực hành, tốt nhất là có sự chỉ dạy của những vị
thầy có kinh nghiệm.
Cần
thiết là phải thực hành thường xuyên liên tục, để càng lúc càng đi sâu vào tánh
Giác bổn lai diện mục của mình (Chỉ), càng lúc càng thoát khỏi những hình tướng
như huyễn do thức tạo (Quán), càng lúc càng tương ưng tùy thuận tánh Giác
(Thiền) để tánh Giác càng ngày càng hiển lộ, hiện tiền.
Càng
thực hành thường xuyên chúng ta càng tiến gần đến cái đời sống “chẳng phải
huyễn, bất tử”, cái đời sống đích thật dành cho mỗi số phận chúng ta. Và chúng
ta sẽ tìm ra ý nghĩa của đời sng đích thật, ý nghĩa ấy kinh Đại Bát
Niết Bàn gọi là Chân Thường, Chân Lạc, Chân Ngã, Chân Tịnh. (TC.
Văn Hóa Phật Giáo 161)