Saturday, December 30, 2023

Virtual Tours - Travel in Vietnam

https://www.traveloka.com/vi-vn/explore/destination/gns-tham-bao-tang-my-thuat-hue/222582 https://vietnamnet.vn/cay-cau-khong-phai-de-di-ma-de-hon-nhau-cua-viet-nam-len-bao-my-2232210.html https://www.cnn.com/travel/vietnam-kiss-bridge-phu-quoc-intl-hnk/index.html https://vietnamnet.vn/loat-diem-den-hap-dan-nhat-mien-bac-cho-ky-nghi-tet-duong-lich-2024-2231468.html https://vietnamnet.vn/bang-gia-xuat-hien-tren-dinh-fansipan-2231307.html https://vietnamnet.vn/mua-mai-anh-dao-no-ro-dep-quen-loi-khach-vuot-lanh-toi-check-in-o-sa-pa-2230381.html https://vietnamnet.vn/cay-hoa-giay-34-nam-tuoi-bung-no-ruc-ro-hut-khach-check-in-o-da-lat-2142639.html https://vietnamnet.vn/kham-pha-cung-duong-deo-quanh-co-ket-noi-nha-trang-da-lat-2136763.html https://vietnamnet.vn/kham-pha-hang-kieu-nu-voi-he-thong-thach-nhu-tuyet-dep-o-quang-binh-2230301.html Any coin has two sides. Your choice and your perspective usually decide what you see. Perception is reality. Let's hope for the best for all in 2024.

Sunday, December 17, 2023

45 năm nhật báo Người Việt, từ garage xe đến ‘tiếng nói’ của cộng đồng

45 năm nhật báo Người Việt, từ garage xe đến ‘tiếng nói’ của cộng đồng December 15, 2023 Ban Biên Tập Người Việt WESTMINSTER, California (NV) – Ngày Thứ Sáu, 15 Tháng Mười Hai, 2023, là ngày sinh nhật thứ 45 của nhật báo Người Việt, được coi là nhật báo lớn nhất của người Việt hải ngoại.
Nhà báo Đỗ Ngọc Yến (phải), chủ nhiệm sáng lập nhật báo Người Việt, và nhà báo Lê Đình Điểu, chủ bút, tại tòa soạn ở địa chỉ 14891 Moran St., Westminster, CA 92683, hồi năm 1986. (Hình: Tài liệu Người Việt)
“Người Việt Cali,” ấn bản đầu tiên và tiền thân của nhật báo Người Việt ngày nay, phát hành ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978. (Hình: Tài liệu Người Việt)
Garage thuộc căn nhà ở địa chỉ 1005 N. Euclid St., Santa Ana, CA 92703, nơi những số báo đầu tiên của nhật báo Người Việt ra đời. (Hình: Đỗ Dzũng/Người Việt) Nói đến nhật báo Người Việt, hầu như mọi người đều biết đến cố nhà báo Đỗ Ngọc Yến, chủ nhiệm sáng lập, bắt đầu những ngày đầu của tờ báo từ một garage xe hơi trong một căn nhà trên đường Euclid, Santa Ana, qua bao nhiêu lần dời chỗ, bao cuộc nổi trôi, để bây giờ vững vàng tọa lạc tại một tòa nhà lớn cuối đường Moran, Westminster, ngay trung tâm Little Saigon, nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất hải ngoại. Đường Moran cũng được gọi là “phố báo,” nơi nhiều cơ quan truyền thông Việt Ngữ tọa lạc. “Bốc 100.000 tị nạn ở ĐNÁ bằng cầu không vận quân lực Mỹ” là tựa bài báo chính của số báo đầu tiên, ra ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978, nói về công cuộc di tản người Việt tị nạn ở Đông Nam Á đến Hoa Kỳ. Lúc đó, tờ báo có tên là “Người Việt Cali,” tiền thân của “Người Việt” ngày nay. Bài thứ nhì có tựa đề “Người Việt xuống đường biểu ngữ áo dài Việt Nam ngập Los,” nói về cuộc biểu tình ở Los Angeles đòi hỏi nhân quyền tại Việt Nam. Bài thứ ba, “700 tị nạn chết chìm ven bờ Mã Lai Á nội 1 tuần,” nói về thảm cảnh đau thương của người Việt tị nạn phải bỏ nước ra đi. Ba bài báo chính này, trong số báo đầu tiên của Người Việt, phần nào nói lên “căn cước” người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ sau khi cuộc chiến kết thúc năm 1975 và cũng là “căn cước” của tờ báo được coi là “tiếng nói” của cộng đồng người Việt hải ngoại, cho đến tận 45 năm sau… Ngoài ra, qua ba bài báo nêu trên, cố nhà báo Đỗ Ngọc Yến cho thấy ý định chú trọng tin tức mà người Việt ở Mỹ quan tâm nhất. Đó là tình hình quê hương Việt Nam, đó là người thân của họ, và đó là những gì xảy ra xung quanh họ, hàng ngày! “Quý vị đang ở Ca Li? Vậy là quý vị đang ở ngay trung tâm điểm của đại cộng đồng VN Hải ngoại. Chẳng đâu chúng ta đông đảo sum họp bằng quanh Ca Li. Tờ báo quý vị cầm trên tay là một nỗ lực truyền thông chuyên nghiệp, giúp quý vị theo dõi mọi góc cạnh đời sống hàng ngày của quý vị và toàn thể gia đình,” lời tòa soạn trong số báo Người Việt đầu tiên. Theo nhà báo Hoàng Khởi Phong, cựu nhân viên tờ báo và là một người bạn thân thiết với ông Đỗ Ngọc Yến, “với anh (Đỗ Ngọc Yến), làm báo có nghĩa là tin tức nóng hổi hằng ngày, là những món ăn tinh thần như hai bữa cơm không thể thiếu để bồi bổ cho thể chất hằng ngày,” khi viết về cố chủ nhiệm sáng lập nhân dịp sinh nhật thứ 40 nhật báo Người Việt cách đây năm năm. “Bố của tôi rất nhiệt huyết về tờ báo vì ông tin là mọi người có thể đến với nhau qua các bài viết,” nhà báo Đỗ Bảo Anh, ái nữ của ông Yến và hiện là chủ biên giao tế cộng đồng của nhật báo The Los Angeles Times, nói với tờ báo lớn nhất miền Tây Hoa Kỳ như vậy năm 2018.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (phải), một trong những lãnh đạo của công ty Người Việt, tại sự kiện kỷ niệm tám năm thành lập nhật báo Người Việt. (Hình: Tài liệu Người Việt) Số báo đầu tiên ấy, ngoài cung cấp thông tin, cũng không quên nhấn mạnh hệ thống rao vặt và quảng cáo nhằm phục vụ cho hàng ngàn cơ sở thương mại của người Việt tại California. Sau này, ngoài những mục thường xuyên, tờ báo có thêm mục cáo phó, phân ưu, và tưởng nhớ đề cập đến sự ra đi của đồng hương trong cộng đồng, được rất nhiều người hưởng ứng và trở thành thế mạnh của Người Việt. Ngày nay, có không ít người thừa nhận họ đọc báo Người Việt một phần để xem các chiến hữu, bạn bè, người thân, “ai còn ai mất.” Ngày nay, Người Việt là “nhật báo” đúng nghĩa duy nhất còn sót lại tại Little Saigon, có nghĩa là một năm có bao nhiêu ngày thì báo ra bấy nhiêu ngày, tức là bảy số báo mỗi tuần. Ngoài ra, tờ báo còn có các sản phẩm khác là Người Việt Online có hàng triệu độc giả theo dõi, Người Việt TV phát hình trên YouTube với gần 20,000 video và hơn 700,000 “subscriber,” rồi Người Việt Facebook, Niên Giám Thương Mại (Người Việt Yearbook), hệ thống tuần báo Sài Gòn Nhỏ phát hành ở 15 tiểu bang, nhà xuất bản Người Việt, tạp chí Thế Kỷ 21 Online, Giai Phẩm Xuân, và từng sở hữu đài phát thanh VNCR và tạp chí Phụ Nữ Gia Đình.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2023/12/DP-Sinh-Nhat-Nguoi-Viet-5-1920x1203.jpg Bà Hoàng Vĩnh, tổng giám đốc kiêm chủ nhiệm nhật báo Người Việt hiện nay. (Hình: Tài liệu Người Việt) Cố nhà báo Đỗ Ngọc Yến và tờ báo Ông Yến từng là phóng viên tại miền Nam Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1975, ông cùng gia đình sang Mỹ định cư, và ông qua đời năm 2006, ở tuổi 65. Trong những ngày đầu tiên, tờ báo căn bản chỉ là “one man band,” trong đó, ông Yến vừa là người viết, vừa là chủ bút, vừa đi bán báo và làm thợ gắn chữ, mặc dù thỉnh thoảng cũng được một số người trong gia đình và bạn bè giúp đỡ. “Ông là một người có tâm huyết cũng như một chủ bút nhiệt thành,” Giáo Sư Jeff Brody của đại học Cal State Fullerton nói với LAT. Ông Brody từng viết một cuốn lịch sử truyền miệng về ông Yến. Những người Việt di dân khi tới ông Yến để nhờ giúp đỡ, lúc nào cũng nhận được sự nhiệt tình, bao gồm chính tiền túi của ông. Nhiều nhân viên nhật báo Người Việt từng chứng kiến bạn bè ông khi mới chân ướt chân ráo đến Mỹ, tới tòa soạn tìm gặp ông, nhờ ông giúp đỡ, mặc dù nhiều khi ông không thể nhớ người đó là ai vì ông quen biết quá nhiều.
Một sự kiện tại phòng sinh hoạt nhân dịp sinh nhật thứ 31 nhật báo Người Việt. (Hình: Tài liệu Người Việt) Làm báo Việt Ngữ là một thách thức lớn Trong “làng báo” Việt Ngữ của cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt tại vùng Little Saigon, ai cũng biết câu nói đùa nhưng đôi khi rất thật, đó là “Muốn đứa nào nghèo cứ xúi nó làm báo.” Quả thật như vậy! Ngoài các chi phí căn bản để duy trì một tờ báo đúng nghĩa, nhật báo Người Việt còn phải đối phó với một cộng đồng vừa thoát khỏi cuộc chiến Việt Nam. Trong khung cảnh như vậy, làm thế nào để dung hòa giữa cộng đồng và “thiên chức” của người làm báo là một việc mà nhật báo Người Việt vẫn duy trì cho đến tận ngày nay. Nhật báo Người Việt từng phải đối diện với những người chống Cộng trong nhiều năm. Từ năm 1981 đến năm 1990, năm nhà báo người Mỹ gốc Việt bị giết, bao gồm tại Orange County. Môi trường làm việc rất nguy hiểm cho những phóng viên bị gán ghép là “thân Cộng” nếu họ tường trình những tin tức có lợi hay tích cực cho nhà cầm quyền Việt Nam. Ông Yến thường nhận được những lời đe dọa sẽ bị giết hay bị những người biểu tình ùa vào văn phòng, và một trong những chiếc xe của nhật báo Người Việt bị đốt cháy trong thập niên 1980. Tờ báo cũng từng bị biểu tình kéo dài mấy năm. Nhưng ông Yến chưa bao giờ để nó ảnh hưởng đến sự phát triển của tờ báo. Ngoài ra, ông được tiếp sức với tâm huyết tạo ra cho một nền báo chí tự do, điều mà không có tại Việt Nam. Chưa hết, ông Yến còn đi xa đến mức ủng hộ tiền cho những tờ báo và tuần báo đang cạnh tranh với nhật báo Người Việt để phát triển nền báo chí đúng nghĩa của nó. Và dần dần, độc giả của Người Việt ngày càng hiểu tờ báo hơn và vẫn tiếp tục ủng hộ “tiếng nói” của cộng đồng trong gần nửa thế kỷ qua. Ngày nay, nhật báo Người Việt vẫn tiếp tục nối tiếp tinh thần ông Yến để lại, với một ban biên tập gồm nhiều phóng viên làm phóng sự, tin tức địa phương tại Little Saigon, cũng như tại các cộng đồng khác trên toàn nước Mỹ và thế giới, mặc dù có giảm một phần sau đại dịch COVID-19.
Quầy “Front Desk” nhật báo Người Việt, nơi đồng hương đến đăng rao vặt và các dịch vụ khác. (Hình: Tài liệu Người Việt) Và Người Việt đã vượt qua tất cả nhờ cộng đồng! Bà Hoàng Vĩnh, tổng giám đốc kiêm chủ nhiệm nhật báo Người Việt, chia sẻ: “Một tờ báo chỉ có thể gọi là chuyên nghiệp khi có thể nuôi sống được phóng viên và biên tập viên cũng như có thể trả nhuận bút cho cộng tác viên. Không chỉ chuyên nghiệp ngay từ những ngày đầu, Người Việt còn nhanh nhạy với thời sự để gắn liền tin tức với đời sống cộng đồng.” “Ngoài việc cung cấp thông tin, Người Việt còn thực hiện nhiều chương trình lợi ích phục vụ cộng đồng. Và không chỉ là tờ báo với những hoạt động thuần túy báo chí, Người Việt còn là một trong những trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, với những buổi chiếu phim, ra mắt sách, triển lãm tranh, trình diễn văn nghệ, chiếu trực tiếp các giải bóng đá lớn trên thế giới phục vụ đồng hương,…” bà cho biết tiếp. Bà khẳng định: “Và 45 năm qua, Người Việt đã ghi dấu sự đóng góp của tất cả quý đồng hương, độc giả và thân hữu. Để có được ngày hôm nay, Người Việt không thể không ghi nhớ công sức của những vị sáng lập cũng như không thể quên sự đóng góp của nhiều thế hệ cộng tác viên và những độc giả bền bỉ gắn bó với tờ báo.” “Bốn mươi lăm năm qua là một chặng đường dài và hiển nhiên di sản Người Việt sẽ tiếp tục phát triển. Chúng tôi luôn mong mỏi nhận được sự đón nhận của độc giả và sự đóng góp của quý đồng hương,” bà Hoàng Vĩnh kết luận.
Một buổi họp nhân viên nhật báo Người Việt. (Hình: Tài liệu Người Việt) Những cột mốc phát triển -Số báo đầu tiên ra đời tại San Diego ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978, là tuần báo “Người Việt Cali,” có bốn trang, do cố nhà báo Đỗ Ngọc Yến chủ trương biên tập. -Sau đó ít lâu, tờ báo chuyển trụ sở về địa chỉ 1005 N. Euclid St., Santa Ana, CA 92703 (trong garage xe), và qua lại một số nơi khác trong một thời gian ngắn. -Năm 1983: Chuyển trụ sở về địa chỉ 9393 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683, với khoảng năm nhân viên. -Năm 1985: Người Việt trở thành nhật báo đầu tiên ở Hoa Kỳ phát hành 5 số/tuần. -Năm 1986: Chuyển trụ sở về địa chỉ 14841 Moran St., Westminster, CA 92683. -Thứ Tư, 6 Tháng Tám, 1986: Người Việt khai trương hệ thống phát hành qua thùng báo. -Thứ Sáu, 3 Tháng Bảy, 1987: Phát hành số báo thứ 1,000. -Cuối thập niên 1980: Chuyển trụ sở về địa chỉ 14891 Moran St., Westminster, CA 92683. -Thứ Sáu, 25 Tháng Giêng, 1991: Phát hành số báo thứ 2,000. -Thứ Hai, 21 Tháng Sáu, 1993: Phát hành số báo thứ 2,753, đánh dấu lần đầu tiên Người Việt phát hành đủ 7 số/tuần. -Thứ Tư, 23 Tháng Hai, 1994: Phát hành số báo thứ 3,000. -Thứ Ba, 19 Tháng Mười Một, 1996: Phát hành số báo thứ 4,000. -Năm 1999: Có phiên bản online trên mạng toàn cầu, www.nguoi-viet.com. -Thứ Hai, 16 Tháng Tám, 1999: Phát hành số báo thứ 5,000. -Chủ Nhật, 12 Tháng Năm, 2002: Phát hành số báo thứ 6,000. -Thứ Sáu, 23 Tháng Tám, 2002: Chuyển trụ sở về địa chỉ 14771 Moran St., Westminster, CA 92683 cho tới nay. -Năm 2004: Nhật báo Người Việt trở thành tờ báo tiếng Việt đầu tiên có đăng ký kiểm toán phát hành tại Hoa Kỳ, tức là được những công ty độc lập kiểm toán số lượng phát hành. -Từ 2004: Có số phát hành kỷ lục 17,548 số báo/ngày. -Thứ Bảy, 5 Tháng Hai, 2005: Phát hành số báo thứ 7,000. -Thứ Sáu, 2 Tháng Mười Một, 2007: Phát hành số báo thứ 8,000. -Năm 2009: Người Việt TV xuất hiện trên YouTube và trên Facebook. -Tháng Mười, 2010: Sản xuất bản tin đầu tiên trên Người Việt TV, có trang web chính thức tại www.nguoiviettv.com. -Thứ Năm, 29 Tháng Bảy, 2010: Phát hành số báo thứ 9,000. -Thứ Tư, 24 Tháng Tư, 2013: Phát hành số báo thứ 10,000. -Thứ Ba, 19 Tháng Giêng, 2016: Phát hành số báo thứ 11,000. -Thứ Bảy, 15 Tháng Chín, 2018: Phát hành số báo thứ 12,000. -Thứ Sáu, 11 Tháng Sáu, 2021: Phát hành số báo thứ 13,000. Ngày 15 Tháng Mười Hai, 2023 Người Việt Online: 300,000 pageview (lượt xem)/ngày. Người Việt TV/YouTube: Tổng số view hơn 506 triệu và gần 710,000 khán giả thường xuyên. Người Việt/Facebook: 156,000 like và 334,000 follower. Nguồn:

Sunday, December 10, 2023

Europe reaches a deal on the world's first comprehensive AI rules

December 9, 20232:09 AM ET By The Associated Press
The OpenAI logo is displayed on a cellphone with an image on a computer monitor generated by ChatGPT's Dall-E text-to-image model in Boston on Dec. 8, 2023. Michael Dwyer/AP LONDON — European Union negotiators clinched a deal Friday on the world's first comprehensive artificial intelligence rules, paving the way for legal oversight of AI technology that has promised to transform everyday life and spurred warnings of existential dangers to humanity. Negotiators from the European Parliament and the bloc's 27 member countries overcame big differences on controversial points including generative AI and police use of face recognition surveillance to sign a tentative political agreement for the Artificial Intelligence Act. "Deal!" tweeted European Commissioner Thierry Breton just before midnight. "The EU becomes the very first continent to set clear rules for the use of AI." The result came after marathon closed-door talks this week, with the initial session lasting 22 hours before a second round kicked off Friday morning. Officials were under the gun to secure a political victory for the flagship legislation. Civil society groups, however, gave it a cool reception as they wait for technical details that will need to be ironed out in the coming weeks. They said the deal didn't go far enough in protecting people from harm caused by AI systems. "Today's political deal marks the beginning of important and necessary technical work on crucial details of the AI Act, which are still missing," said Daniel Friedlaender, head of the European office of the Computer and Communications Industry Association, a tech industry lobby group. The EU took an early lead in the global race to draw up AI guardrails when it unveiled the first draft of its rulebook in 2021. The recent boom in generative AI, however, sent European officials scrambling to update a proposal poised to serve as a blueprint for the world. The European Parliament will still need to vote on the act early next year, but with the deal done that's a formality, Brando Benifei, an Italian lawmaker co-leading the body's negotiating efforts, told The Associated Press late Friday. "It's very very good," he said by text message after being asked if it included everything he wanted. "Obviously we had to accept some compromises but overall very good." The eventual law wouldn't fully take effect until 2025 at the earliest, and threatens stiff financial penalties for violations of up to 35 million euros ($38 million) or 7% of a company's global turnover. Generative AI systems like OpenAI's ChatGPT have exploded into the world's consciousness, dazzling users with the ability to produce human-like text, photos and songs but raising fears about the risks the rapidly developing technology poses to jobs, privacy and copyright protection and even human life itself. Now, the U.S., U.K., China and global coalitions like the Group of 7 major democracies have jumped in with their own proposals to regulate AI, though they're still catching up to Europe. Strong and comprehensive rules from the EU "can set a powerful example for many governments considering regulation," said Anu Bradford, a Columbia Law School professor who's an expert on EU law and digital regulation. Other countries "may not copy every provision but will likely emulate many aspects of it." AI companies subject to the EU's rules will also likely extend some of those obligations outside the continent, she said. "After all, it is not efficient to re-train separate models for different markets," she said. The AI Act was originally designed to mitigate the dangers from specific AI functions based on their level of risk, from low to unacceptable. But lawmakers pushed to expand it to foundation models, the advanced systems that underpin general purpose AI services like ChatGPT and Google's Bard chatbot. Foundation models looked set to be one of the biggest sticking points for Europe. However, negotiators managed to reach a tentative compromise early in the talks, despite opposition led by France, which called instead for self-regulation to help homegrown European generative AI companies competing with big U.S rivals, including OpenAI's backer Microsoft. Also known as large language models, these systems are trained on vast troves of written works and images scraped off the internet. They give generative AI systems the ability to create something new, unlike traditional AI, which processes data and completes tasks using predetermined rules. The companies building foundation models will have to draw up technical documentation, comply with EU copyright law and detail the content used for training. The most advanced foundation models that pose "systemic risks" will face extra scrutiny, including assessing and mitigating those risks, reporting serious incidents, putting cybersecurity measures in place and reporting their energy efficiency. Researchers have warned that powerful foundation models, built by a handful of big tech companies, could be used to supercharge online disinformation and manipulation, cyberattacks or creation of bioweapons. Rights groups also caution that the lack of transparency about data used to train the models poses risks to daily life because they act as basic structures for software developers building AI-powered services. What became the thorniest topic was AI-powered face recognition surveillance systems, and negotiators found a compromise after intensive bargaining. European lawmakers wanted a full ban on public use of face scanning and other "remote biometric identification" systems because of privacy concerns. But governments of member countries succeeded in negotiating exemptions so law enforcement could use them to tackle serious crimes like child sexual exploitation or terrorist attacks. Rights groups said they were concerned about the exemptions and other big loopholes in the AI Act, including lack of protection for AI systems used in migration and border control, and the option for developers to opt-out of having their systems classified as high risk. "Whatever the victories may have been in these final negotiations, the fact remains that huge flaws will remain in this final text," said Daniel Leufer, a senior policy analyst at the digital rights group Access Now.

How OpenAI's origins explain the Sam Altman drama

November 24, 20235:00 AM ET Bobby Allyn
Alphabet CEO Sundar Pichai, left, and OpenAI CEO Sam Altman arrive to the White House for a meeting in May. OpenAI's board of directors' abruptly firing CEO Sam Altman then bringing him back days later did not come out of nowhere. In fact, the boardroom drama represented the boiling over of tensions that have long simmered under the surface of the company. Following days of upheaval, Altman is again leading the company and a newly-formed board of directors is charting the path ahead, but the chaos at OpenAI can be traced back to the unusual way the company was structured. OpenAI was founded in 2015 by Altman, Elon Musk and others as a non-profit research lab. It was almost like an anti-Big Tech company; it would prioritize principles over profit. It wanted to, as OpenAI put it back then, develop AI tools that would "benefit humanity as a whole, unconstrained by a need to generate financial return." But in 2018, two things happened: First, Musk quit the board of OpenAI after he said he invested $50 million, cutting the then-unknown company off from more of the entrepreneur's crucial financial backing. And secondly, OpenAI's leaders grew increasingly aware that developing and maintaining advanced artificial intelligence models required an immense amount of computing power, which was incredibly expensive. Balancing ideals with the need for funding A year after Musk left, OpenAI created a for-profit arm. Technically, it is what's known as a "capped profit" entity, which means investors' possible profits are capped at a certain amount. Any remaining money is re-invested in the company. Yet the nonprofit's board and mission still governed the company, creating two competing tribes within OpenAI: adherents to the serve-humanity-and-not-shareholders credo and those who subscribed to the more traditional Silicon Valley modus operandi of using investor money to release consumer products into the world as rapidly as possible in hopes of cornering a market and becoming an industry pacesetter. Altman, a 38-year-old techno-optimist who previously led the prestigious startup accelerator Y Combinator, tried to thread the needle between the two approaches. He struck something of a middle ground by unveiling new OpenAI tools gradually, first to smaller groups, then larger ones, to fine-tune and refine the tools before making them public. ChatGPT's success attracts Big Tech money When OpenAI kicked off a seismic shift in the tech industry with its launch of ChatGPT last year, the company's most prominent investor, Microsoft, greatly increased its financial stake. It upped its commitment to OpenAI to the tune of $13 billion. Microsoft became the financial engine that powered OpenAI, but the nonprofit's board of directors still called all the shots. Despite Microsoft's sizable investment, it did not have a seat on OpenAI's board. All of this set the stage for Altman's sudden ouster from the company earlier this month. The board itself has still not explained why it fired Altman — beyond saying, in vague terms, that it believed Altman had not been "consistently candid in his communications with the board." And the company's structure gives the board that right: it has complete, unchecked power to remove the CEO whenever it sees fit. Sources close to the discussions say before Altman's termination, he had been at odds with members of the board over the hasty commercialization of OpenAI products. Board members worried whether Altman was considering the risks of AI products seriously enough, or just trying to maintain the company's dominant position in the crowded and competitive world of generative AI development. The dangers of powerful AI range from supercharging the spread of disinformation, massive job loss and human impersonation exploited by bad actors. The question was, did Altman abandon OpenAI's founding principles to try to scale up the company and sign up customers as fast as possible? And, if so, did that make him unsuited to helm a nonprofit created to develop AI products "free from financial obligations"? Whatever its reasoning, there was nothing Microsoft, or any company executive, could do when the board moved to jettison Altman. The dramatic gesture, and then reversal, illustrated the tension at the heart of OpenAI's structure. An anonymous letter written by former OpenAI employees during the Altman drama called on the board to examine whether Altman was putting commercial products and fundraising goals before the nonprofit's founding mission. "We implore you, the Board of Directors, to remain steadfast in your commitment to OpenAI's original mission and not succumb to the pressures of profit-driven interests," the letter states. "The future of artificial intelligence and the well-being of humanity depend on your unwavering commitment to ethical leadership and transparency." An uneasy resolution OpenAI's board at first refused to entertain the possibility of Altman returning, but then something happened they could not ignore: 702 out of OpenAI's 770 employees committed to leaving the company unless Altman was restored. The employees also asked that a new board be assembled. It was, and Altman was restored as CEO not long after. Just one former board member sits on the new, temporary board: Adam D'Angelo, the CEO of the question-and-answer site Quora. He had voted for Altman's ouster. Others, who are familiar to Silicon Valley boards, have taken seats alongside him. They include Bret Taylor, a longtime Silicon Valley executive and former chairman of the board of Twitter, and former Treasury Secretary Larry Summers. As it stands, OpenAI's charter says it is committed to the development of artificial general intelligence, also known as AGI, or a type of AI superintelligence that can outperform humans, that will not "harm humanity or unduly concentrate power." But success in Silicon Valley almost always requires massive scale and the concentration of power — something that allowed OpenAI's biggest funder, Microsoft, to become one of the most valuable companies in the world. It is hard to imagine Microsoft would invest $13 billion into a company believing it would not one day have an unmovable foothold in the sector. Under the board's current mission, developing AI systems should be undertaken with the main goal of benefiting all of humanity, with no regard to ever turning a profit for outside investors. Yet the for-profit entity of OpenAI will continue to recruit moneyed enthusiasts who want in on the AI goldrush. The two sides are at cross purposes, with no clear way to co-exist. The new board is expected to grow and include a representative from Microsoft. Among the board's tasks: taking a hard look at OpenAI's structure. Does the hybrid model create too much friction? Or is there a way to forge ahead with a middle-of-the-road approach? https://www.npr.org/2023/11/24/1215015362/chatgpt-openai-sam-altman-fired-explained

Gian lao của TT Ngô Đình Diệm khi đẩy người Pháp ra khỏi miền Nam

November 1, 2023 Nguyễn Tiến Hưng Tiếng hát của ca đoàn vang vang trong thánh đường buổi sáng hôm ấy. Nhà thờ Chính Tòa Sài Gòn (còn gọi là nhà thờ Đức Bà) đã chật ních những giáo dân. Bầu không khí thật trang ngiêm, long trọng. Đã từ mấy tuần rồi, ca đoàn phải tập dượt cho thật kỹ một số nhạc khúc chọn lọc để hát vào một dịp lễ đặc biệt. Lần đầu tiên, một hồng y Mỹ nổi tiếng, ông Francis Spellman, tới thăm viếng Việt Nam. Ông là thượng khách của tân thủ tướng chính phủ. Phần đông ca đoàn là những thanh niên vừa được tàu Mỹ chuyên chở từ miền Bắc di cư vào Nam mùa Hè 1954, trong đó có tác giả. Tổng Thống Ngô Đình Diệm (thứ ba từ phải) và nội các ngày 10 Tháng Năm, 1955, tại Sài Gòn. (Hình: Fernand Jentile/Intercontinentale/AFP via Getty Images)
Từ nơi bão lụt triền miên, chiến tranh loạn lạc, nay được hưởng bầu không khí thanh bình của miền Nam trù phú, chúng tôi hết sức lên tinh thần. Thành phố Sài Gòn văn minh, tráng lệ, đúng là “Viên Ngọc Trân Châu của Á Đông.” Hằng ngày đài phát thanh nói đến nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm từ Mỹ trở về. Bây giờ lại có hồng y Tổng Giáo Phận New York tới thăm. Thấy vậy, nhóm thanh niên chúng tôi tràn đầy hứng khởi. Suy nghĩ của tuổi trẻ đơn sơ là như vậy. Có ngờ đâu vào vào thời gian ấy, những sự sắp xếp trên bàn cờ chính trị tại miền Nam thật là rối ren, nguy hiểm. Trông gương mặt của Thủ Tướng Diệm, thấy ông lầm lầm, lì lì, ít cười nhưng bình tĩnh, khó ai biết được những khó khăn mà ông và trên thực tế, cả miền Nam, đang gặp phải. Ý định “từ quan” không thành Trong quá vãng, Quốc Trưởng Bảo Đại đã mời ông Diệm làm thủ tướng tới ba lần. Lần thứ tư ông mới chấp nhận. Lần thứ nhất là vào năm 1949, sau khi ông Diệm đóng góp vào việc đưa ông Bảo Đại từ Hồng Kông về làm quốc trưởng, ông được mời làm thủ tướng. Hai lần sau là vào năm 1951 khi ông Diệm còn đang ở Mỹ. Cả ba lần ông Diệm đều từ chối vì cho rằng ông không thể làm được việc gì khi người Pháp còn dính líu vào chính trị Việt Nam. Tới năm 1954, sau khi Quốc Hội Pháp thông qua Hiệp Ước Độc Lập (Treaty of Independence) ngày 4 Tháng Sáu, 1954, ông Diệm mới chấp nhận lời mời của ông Bảo Đại. Ngày 16 Tháng Sáu, 1954 khi chỉ định ông Diệm, thoạt đầu ông từ chối. Trong cuốn hồi ký “Con Rồng Việt Nam” (1990), ông Bảo Đại ghi lại câu chuyện này như sau: “Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ,” Quốc Trưởng Bảo Đại nói với ông Ngô Đình Diệm. “Thưa hoàng thượng, không thể được ạ. Tôi xin trình ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…,” ông Ngô Đình Diệm đáp. “Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.” Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông Diệm đáp: “Thưa hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng ngài trao phó.” Như vậy, giây phút ấy ¬¬¬- ngày 16 Tháng Sáu, 1954 – là giây phút quyết định số mệnh của ông Ngô Đình Diệm. Ông muốn từ quan – không phải là để “lên non tìm động hoa vàng” – nhưng là… để đi tu. Khi Quốc Trưởng Bảo Đại nại đến sự tồn vong của đất nước và không cho ông được phép từ quan, ông Diệm mới lĩnh nhận sứ mạng, một sứ mạng đã đưa đến cho ông bao nhiêu nguy hiểm, gian lao ngay từ đầu, để rồi tiếp tục cuộc hành trình chông gai đi tới cuối đường, nơi tử thần đứng sẵn chờ đợi ông. Bước gian truân ban đầu Khi chỉ định ông Diệm, Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ hỏi ý kiến Ngoại Trưởng Foster Dulles của Mỹ, chứ không phải là “Mỹ đưa ông Diệm về Việt Nam làm thủ tướng” như dư luận hay nói đến. Vì biết rõ uy tín của ông Diệm ở Việt Nam nên Mỹ rất ủng hộ ý kiến của ông Bảo Đại. Nhưng sự ủng hộ cũng không kéo dài được bao lâu. Chỉ nội trong 10 tháng, Thủ Tướng Diệm cố gắng thành lập một chính phủ trong hoàn cảnh rối ren 1954 của Sài Gòn, Mỹ đã muốn thay thế ông. Lý do chính yếu là sự vận động thành công của Pháp để loại trừ ông vì biết thành tích chống Pháp của gia đình Ngô Đình Khả. Mỹ đã nghe những lời khuyến dụ của Tướng Paul Ely (tư lệnh Pháp ở Đông Dương) đánh giá ông Diệm không đủ khả năng lãnh đạo và không được dân chúng miền Nam ủng hộ. Ông Ely lại là bạn đồng liêu của Tướng John Collins của Mỹ trong Thế Chiến 2. Bây giờ ông Collins là đặc ủy (rồi đại sứ) của Tổng Thống Dwight Eisenhower tại miền Nam. Đầu Tháng Tư, 1955, Tướng Collins đề nghị rõ ràng về năm bước để loại bỏ ông Diệm (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 11). Và ông Collins đã thành công. Cuối Tháng Tư, 1955, Washington có chỉ thị tối mật, đó là thay thế Thủ Tướng Diệm. Nhưng nhờ cơ may, ông Diệm lật ngược được thế cờ trong khoảnh khắc và Washington đã hủy mật lệnh này như chúng tôi đã đề cập trong cuốn sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào.” Với cái thế mạnh sau Tháng Tư, 1955, Thủ Tướng Diệm đã đẩy được người Pháp ra khỏi Việt Nam, thu hồi được độc lập cả về chính trị, quân sự lẫn kinh tế, tài chánh, hoàn thành được giấc mộng mà gia đình Ngô Đình Khả nuôi dưỡng từ khi còn làm quan triều Nguyễn. Hiệp Định Geneva (Tháng Bảy, 1954) chỉ là để phân chia ranh giới rút quân. Quân đội Liên Hiệp Pháp rút về bên dưới vĩ tuyến 17 chứ không phải là rút khỏi Việt Nam. Ngày 20 Tháng Năm, 1955 là cái mốc lịch sử vì hôm đó quân đội Pháp rút khỏi khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Tới Tháng Bảy, số quân đội Pháp từ 175,000 xuống chỉ còn 30,000. Ông Diệm yêu cầu là cả quân đội lẫn huấn luyện viên người Pháp đều bắt buộc phải rời khỏi miền Nam vào mùa Xuân, 1956. Ông Diệm đã thật vất vả và chấp nhận nhiều nguy hiểm khi đi tới quyết định này. Sau cùng, vào Tháng Tám, 1955, Pháp đồng ý đóng cửa cơ quan quản lý thuộc địa, gọi là “Bộ Các Quốc Gia Liên Kết.” Về phía Mỹ, Đại Sứ Collins, người nghe lời Tướng Paul Ely, vốn đã muốn lật đổ Thủ Tướng Diệm, cũng bị thuyên chuyển. Ngày 14 Tháng Năm, 1955, ông rời Việt Nam sang nhận trách nhiệm mới tại NATO. Đại Sứ G. Frederick Reinhardt sang thay Collins. Tân đại sứ liền tuyên bố ngày 27 Tháng Năm: “Tôi tới đây với chỉ thị là thi hành chính sách của Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ hợp pháp của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.” Sang mùa Thu 1955, uy tín của Thủ Tướng Diệm lên cao. Đối nội, ông nối kết lại được một quốc gia đang bị phân tán nặng nề, khuất phục được sự chống đối của Tướng Nguyễn Văn Hinh, tổng tham mưu trưởng quân đội (thân Pháp), chấm dứt được sự đe dọa của cảnh sát, quân đội quốc gia đã tuân lệnh ông quét sạch lực lượng Bình Xuyên rồi được đại hội các đoàn thể chính đảng nhất mực ủng hộ. Thêm nữa, ông có hậu thuẫn mạnh mẽ của gần 1 triệu người di cư. Đối ngoại thì ông Diệm đã cương quyết chống trả và khuất phục được mưu đồ của Pháp và kế hoạch dẹp tiệm của cặp Ely-Collins, bây giờ lại được Washington nhất mực ủng hộ. Nhiều nhà quan sát quốc tế bình luận: “Ông Diệm đã làm được những việc như phép lạ.” Với cái thế ấy, ngày 26 Tháng Mười, 1955, Thủ Tướng Diệm tuyên bố thành lập chế độ Cộng Hòa và trở thành tổng thống đầu tiên. Tên chính thức của nước Việt Nam đổi từ “Quốc Gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng Hòa,” nhưng bài quốc ca và quốc kỳ không thay đổi. Quốc Hội đầu tiên, Tháng Ba, 1956 Ngày 4 Tháng Ba, 1956, cột trụ của chính thể cộng hòa được xây dựng. Nhân dân miền Nam đi bầu một quốc hội lập hiến. Với một dân số là 12 triệu người, gần 80% số người được đi bầu đã thực sự tham gia để chọn 123 dân biểu trong số 405 ứng cử viên. Dù tới gần một phần ba số ứng cử viên được chính phủ đề cử đã không trúng cử, đa số những người được bầu là thân chính. Tuy không phải là một cuộc bầu cử lý tưởng, vì chắc chắn đã có những vận động, sắp xếp không chính đáng, hoặc gian lận, như các phe đối lập tố cáo, nó cũng là bước đi đầu tiên của một hành trình lâu dài để xây dựng nền cộng hòa. “Res Publica,” quan niệm của nhà triết học Plato từ thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, có nghĩa là “sự việc hay cơ chế của nhân dân,” chúng ta dịch là “Cộng Hòa.” Nòng cốt của cơ chế này là một thể chế đại diện cho nhân dân để làm ra luật pháp. Mục đích của Quốc Hội năm 1956 là soạn thảo một hiến pháp. Với sự cố vấn của ông J.A.C. Grant, một chuyên gia hiến pháp người Mỹ, một hiến pháp thành hình, đặt nặng nguyên tắc phân quyền giữa hành pháp, lập pháp, và tư pháp giống như Hiến Pháp Hoa Kỳ, ít nhất là về mặt lý thuyết. Bầu xong Quốc Hội Lập Hiến, vào mùa Hè 1956, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ gửi một Bản Ghi Nhớ cho tổng tham mưu trưởng quân đội thông báo “ý định của Tổng Thống Dwight Eisenhower, các cơ quan có thẩm quyền về quân sự phải cổ võ giới quân sự Việt Nam để làm một kế hoạch song song và phù hợp với kế hoạch dựa trên căn bản chính sách của Hoa Kỳ để đối phó với những tấn công của Cộng Sản. Và một cách kín đáo, phải thông báo cho họ biết rằng Hoa Kỳ sẽ yểm trợ nước Việt Nam tự do để đương đầu với bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài vào.” Tổng Thống Eisenhower hết mực ủng hộ. Riêng đối với Ngoại Trưởng Dulles thì sau chuyến viếng thăm Tổng Thống Diệm vào ngày 14 Tháng Năm, 1956, ông lại càng thêm tin tưởng. Điều trần tại một ủy ban Thượng Viện Hoa Kỳ sau ngày trưng cầu dân ý, ông Dulles khẳng định: “Ông Diệm đã làm được một việc quá tốt đẹp, dĩ nhiên là với sự yểm trợ của chúng ta, là quét sạch được các lực lượng phe phái…và quyền bính của ông bây giờ được đại chúng chấp nhận. Ông đã được Hoa Kỳ yểm trợ để đào tạo và võ trang một quân đội quốc gia, và quân đội ấy đã chiến đấu một cách trung thành và hữu hiệu, mang được quyền bính của trung ương tới mọi nơi trong nước tới mức độ thật ngạc nhiên…” “Nhân dân miền Nam có được một cuộc trưng cầu dân ý khoáng đại. Ngày tôi rời Việt Nam, họ bắt đầu có những cuộc họp để sửa soạn bầu một quốc hội đầu tiên, như vậy nền móng đã được đặt xuống để xây dựng một chính phủ đại diện cho quốc dân.” “Ông Bảo Đại đã bị loại bỏ đi rồi và nhân dân Việt Nam hiện có khả năng xây dựng một chính thể chống Cộng mạnh mẽ và hữu hiệu tại một nơi mà đã có lúc coi như sắp bị tan rã vì hai lý do: Hậu quả của việc Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, và những điều khoản bất lợi của một hiệp định đình chiến (Hiệp Định Geneva).” Ngày 26 Tháng Mười, 1956, Quốc Hội Lập Hiến trở thành Quốc Hội Lập Pháp sau khi Hiến Pháp được ban hành (và năm 1959, Quốc Hội được bầu lại lần thứ hai). “Một quốc gia tự do vừa ra đời” Tháng Năm, 1957, Tổng Thống Eisenhower mời tân tổng thống nước Cộng Hòa Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ ba tuần. Ông gửi máy bay riêng Columbine III sang tận Honolulu, Hawaii, để chở Tổng Thống Diệm tới Washington DC, một hành động rất hãn hữu. Khi máy bay hạ cánh xuống phi trường National (bây giờ là phi trường Ronald Reagan Washington National Airport) thì chính Tổng Thống Eisenhower đã có mặt để đón chào. Đây là lần thứ hai trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống mà ông Eisenhower đích thân ra tận phi trường để đón quốc khách. Lần đầu là đón Quốc Vương Saud bin Abdulaziz Al Saud của Saudi Arabia. Sau khi trao đổi với Tổng Thống Eisenhower và Ngoại Trưởng Dulles tại Tòa Bạch Ốc, Tổng Thống Diệm được cả Thượng Viện và Hạ Viện Hoa Kỳ mời tới Quốc Hội để diễn thuyết. Các thượng nghị sĩ và dân biểu lưỡng đảng đều có mặt đầy đủ. Cho tới lúc ấy thì chưa có lãnh đạo Á Đông nào có cái vinh dự này. Những tràng pháo tay nổ ran khi ông Diệm nói tới “ước nguyện của nhân dân Việt Nam chỉ là được sống trong hòa bình, tự do và họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tự do và độc lập của mình, chỉ yêu cầu nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ cho họ về phương tiện và vật chất.” Một cách gián tiếp, ông muốn gửi thông điệp là chúng tôi chỉ cần sự yểm trợ vật chất, các ông chớ có mang quân vào Việt Nam. Rồi ông nhấn mạnh đến quyền lợi hỗ tương của cả hai nước dựa trên căn bản miền Nam là tiền đồn của thế giới tự do. Ông nói thẳng bằng tiếng Anh chứ không qua thông dịch viên. Theo một người bạn chúng tôi lúc ấy làm ở đài VOA (bác Trịnh Văn Chẩn) được cử đi làm phóng sự, ông Diệm nói với âm hưởng Huế, có câu các dân biểu, thượng nghị sĩ không hiểu rõ, nhưng cứ đứng lên vỗ tay vang vang thật lâu, và đứng lên nhiều lần. Tại New York, Thị Trưởng Robert F. Wagner tổ chức một cuộc diễn hành để chào mừng vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam. Ít quốc khách nào được đón tiếp như vậy. Dù ít người ở thành phố này biết ông Diệm, nhưng dân chúng đổ xô ra đường phố để hoan hô. Từ các cao ốc, những cánh hoa đủ mầu sắc được rắc xuống chiếc xe limousine mui trần chở ông Diệm đi qua. Báo chí đồng loạt ca tụng, nói đến “Một quốc gia tự do vừa ra đời.” Nhật báo The New York Times gọi Tổng Thống Diệm là “một người giải phóng Á Châu.” Tuần báo Life: “Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt Nam” (A tough miracle man of Vietnam). Sau này Phó Tổng thống Lyndon Johnson (thời Tổng Thống John Kennedy) còn gọi ông Diệm là “Churchill của Á Châu.” Phản ứng tại Quốc Hội Mỹ hết sức thuận lợi. Các thượng nghị sĩ, dân biểu thay nhau khen ngợi. Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits (Cộng Hòa-New York) tuyên bố: “Ông là một trong những anh hùng của thế giới tự do.” Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield (Dân Chủ-Montana), người ủng hộ ông Diệm trong những giờ phút nguy hiểm, giờ đây hết sức vui mừng, ca ngợi Tổng Thống Diệm là con người có quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực, “một người đã chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn.” Thượng Nghị Sĩ John Kennedy (Dân Chủ-Massachusetts), sau này làm tổng thống, còn tuyên dương Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông Diệm: “Việt Nam là nền tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á, là đỉnh vòm của vòng cung (keystone to the arch), là ngón tay trên con đê (finger in the dyke).” Cuối màu Hè 1957, những hình ảnh tiếp đón Tổng Thống Diệm linh đình tại thành phố New York và thủ đô Washington DC được chiếu thật lớn trên màn ảnh tại các rạp chiếu phim ở Sài Gòn cũng như các đô thị, sau phần tin tức nhộn nhịp về thể thao. Bầu không khí lúc ấy thật là phấn khởi. Sinh viên, học sinh chúng tôi hết sức vui vẻ “xuống đường” liên tục, chăng biểu ngữ đi biểu tình để “chào mừng tổng thống đầu tiên, ủng hộ Quốc Hội Lập Hiến.” Mỗi buổi sáng, tiếng kèn trống của ban quân nhạc oang oang trên đài phát thanh cử hành lễ chào cờ, tiếp theo là bài tung hô Ngô Tổng Thống: “Bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người…” Ngày 28 Tháng Tư, 1956, những người lính Pháp cuối cùng rời Việt Nam. Sự chiếm đóng của quân lực Pháp từ Hiệp Ước Patenôtre do triều đình Huế ký với Pháp năm 1884 tới đây đã hoàn toàn chấm dứt trên thực tế. Buổi bình minh của nền Cộng Hòa thực là huy hoàng rực rỡ.

Thursday, November 30, 2023

Thích Tuệ Sỹ, khuôn mặt tiêu biểu của văn hóa Việt Nam

November 29, 2023 Trần Doãn Nho/Người Việt KENNEDALE, Texas (NV) – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. (Hình: Giác Ngộ) https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2023/11/VHNT-Thich-Tue-Sy-tieu-bieu-1.jpg
Tôi quen với Thầy Tuệ Sỹ tại Huế, năm 1965. Lúc đó, cả hai chúng tôi đều ở lứa tuổi 20. “Tôi thú vị nhìn người bạn mới quen trong bộ áo quần nhà tu bạc màu, cũ kỹ. Giọng nói nhỏ nhẹ. Dáng bước thong dong. Chiếc áo nâu lất phất. Một nhà tu. Như thực như giả. Như có như không. (…) Hình ảnh một chú tiểu, vừa có cái nét lãng đãng của một người nghệ sĩ, lại không thiếu vẻ siêu thoát của một nhà tu. Nhìn Thầy, tôi có cảm giác như mọi ràng buộc, mọi quy lệ, mọi giáo điều đều vỡ vụn. Thầy đi, Thầy sống y như thể không có ai, không có gì, không từ đâu và đến đâu cả.” (1) Sau này, gặp lại nhau nhiều lần ở Đại Học Vạn Hạnh, thập niên 1970, Thầy vẫn thế: “Thầy sống, vui chơi, học đạo và làm việc một cách bình thường, đơn giản, không màu mè, khách sáo. Vẫn bộ nâu sồng. Vẫn thân hình mảnh dẻ. Vẫn ánh mắt tươi vui. Vẫn nụ cười dung dị, bình thản. Như độ nào. Một nhà tu. Một nhà trí thức. Một nghệ sĩ. Một người bạn. Một con người. Thầy nhìn mọi sự kiện, mọi vấn đề dưới con mắt thản nhiên, không mấy băn khoăn, ray rứt. Thỉnh thoảng, Thầy đưa ra vài nhận xét dí dỏm, tinh nghịch. Tất cả quyện làm một trong Thầy, gọn gàng, sinh động.” (2) Mùa Hè năm 1983, tôi ghé thăm Thầy ở chùa Già Lam. “Thầy nằm đó, thân hình ép sát xuống tấm phản gỗ lớn. Người như chẳng còn gì, ngoài xương và da. Ốm o, mảnh dẻ. Chỉ có khuôn mặt là vẫn vậy, như xưa, chỉ có khác là xương xẩu hơn, làm nổi bật thêm đôi mắt to và chân mày đậm. Tôi nhìn chăm Thầy, cảm động nói: -Thầy không khác… Thầy nhổm dậy, nhìn tôi, hỏi: -Thế nào, ông ở tù chứ? -Sáu năm. Ra tù năm 1981. -Ta cũng ra tù năm 1981. -Thầy làm gì mà ở tù? -Lý do chính thì ta không biết. Nhưng lý do phụ là cư trú bất hợp pháp, không có hộ khẩu. Ta bây giờ chẳng còn là ta nữa. Không hộ khẩu. Không giấy tờ. Không công dân. Không quê hương. Không gì hết!” (3) Tháng Tư, 1984, tôi ghé lại chùa Già Lam, thì nghe tin Thầy đã bị bắt trước đó mấy hôm. Từ đó cho đến giờ, tôi không hề gặp lại Thầy. Không gặp, nhưng Thầy vẫn đâu đó bên tôi. *** Cuộc đời, hành trạng và sự nghiệp văn hóa lớn lao, độc sáng của Thầy đã được đề cập đến một cách cụ thể và đầy đủ qua các bậc thức giả như Văn Công Tuấn, Thích Phước An, Vĩnh Hảo, Tâm Thường Định, Phạm Công Thiện, Tuệ Hạnh, Nguyên Siêu, Lê Mộng Nguyên… và nhất là Thầy Thích Nguyên Siêu, mà bài viết “Hòa Thượng Tuệ Sỹ, Trí Siêu, những thiên tài lỗi lạc” của Thầy đã cung cấp nhiều tài liệu và chi tiết khả tín, rất có ích cho những ai muốn nghiên cứu sau này. Với tư cách là một người ngưỡng mộ và cũng là một người bạn thời tuổi trẻ, tôi xin chia sẻ cùng quý độc giả một vài điều suy ngẫm riêng của mình về một số các sáng tác (thơ, văn), các bài chính luận cũng như các công trình biên khảo của Thầy mà tôi đã có dịp được đọc qua. Tuệ Sỹ, nhà thơ Tuệ Sỹ là một nhà thơ, theo nghĩa chính xác nhất của từ ngữ này. Không những sáng tác thơ, Tuệ Sỹ còn bình thơ: Tô Đông Pha, Quách Tấn, Bùi Giáng, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn, Hoài Khanh… Thơ Thầy khá nhiều, về đủ đề tài, kể cả tình yêu. Trừ những bài chính luận hay biên khảo về Phật pháp đòi hỏi phải sử dụng thứ ngôn ngữ mực thước để tránh hiểu lầm, tôi nhận thấy, hễ bình thơ hay viết bất cứ gì thuộc về cuộc nhân sinh, ngôn ngữ của Tuệ Sỹ luôn luôn hàm chứa chất phóng túng, tự do và phơi mở. Chính điều này đã khiến cho Thầy, dù là một nhà tu đức cao vọng trọng, lại vẫn rất gần gũi với mọi người. Bàn về thơ Tô Đông Pha, Tuệ Sỹ viết: “Từ tâm tình đến cuộc tình, từ cuộc tình đến cuộc chơi, rồi từ cuộc chơi đến cuộc hẹn; thế là, đang lân la, bỗng đột ngột phát hiện một phương trời viễn mộng, xa xôi. Trong cõi đó, lữ khách bao giờ cũng thấy mình đang bươn bả ra đi, đi biền biệt, đi triền miên, tưởng như không bao giờ có bến bờ để đổ lại; nhưng, đi và đi mất, trong từng khoảnh khắc, cái đến và nơi đến, đã đến tự bao giờ. Cuộc tình chia phôi từ độ đó.” (…) “Đó là tình thơ trong cuộc thơ và cõi thơ; không quyết là của Đông Pha hay không là của Đông Pha. Nhưng người chơi thơ, mở cuộc giao tình với cuộc thơ, ban đầu chỉ như đi tìm một cõi mộng đơn sơ; rồi đột ngột, và sững sờ, cảm khái như một mối sầu cô lữ, thấy mình lưu lạc ở một phương trời đọa đày viễn mộng.” (4) Tuệ Sỹ là như thế! Thích thú với cung cách độ lượng đó, tôi luôn đọc thơ Tuệ Sỹ như Tuệ Sỹ, một nghệ sĩ, không như một nhà tu. Thơ Tuệ Sỹ, trước hết và trên hết, là thơ của một con người sống giữa trần gian với tất cả những thuộc tính rất trần gian: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục. Thầy viết về phận người, về tình yêu, về thế sự, về tù đày, về tuyệt vọng, về đau khổ, tiếc nuối, nhớ nhung, mơ ước, hy vọng. Chỉ nói riêng về mặt từ ngữ thôi, ta cũng đã thấy thơ Thầy nhuốm đầy mùi vị nhân sinh: du thủ, mỏi mòn, ân tình, tàn thu, tóc huyền, tóc rối, tóc em rung sương chiều, gót chân em nắng vàng, môi hôn, mắt biếc, gầy hao, trơ vơ… Về điểm này, quan điểm Thầy rất rõ ràng. Theo Thầy, “…một tác phẩm xứng đáng với một kích thước rộng lớn, nó phải khởi lên từ cảm hứng của thực tại; vì rằng, ngay qua đó, người ta sẽ thấy một cách như thực đâu là tiếng nói của thực tại và đâu là tiếng nói của lòng người: thực tại tức là lòng người. Và cũng từ đó, người ta sẽ tìm thấy đâu là khát vọng sâu xa đang ẩn kín trong lòng người. Một tác phẩm mà không đủ sức chấn động lòng người để mở ra một thế giới như vậy không thể xứng danh là một tác phẩm văn học.” Do đó, “một tác phẩm văn học phải đặt hết tâm tình và cảm xúc ngay ở hình thức phô diễn.” Không phân biệt giữa nội dung và hình thức, tính cách phô diễn là “cả một thế giới sống thực triền miên.” (5) Tiễn một người bạn là tiễn một người bạn: -“Một bước đường thôi nhưng núi cao Trời ơi mây trắng đọng phương nào Đò ngang neo bến đầy sương sớm Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?” (Tống biệt hành) Đã nói “Em” thì là em, không thể ai khác: -“Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa.” (Nhớ dương cầm) -“Tóc em tung bay sương chiều khói biếc Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng Tình hay mộng khi Trường sơn xa hút Ðến bao giờ mây trắng gởi tin sang.” (Nhớ con đường thơm ngọt môi em) Đã là uất ức (của một tù nhân) thì là uất ức (của tù nhân): -“Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận Lời ai ru trào máu lệ bi thương Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương.” (Dạ khúc) Uất ức nhưng vẫn mơ mộng: “Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều.” (Tôi vẫn đợi) Phân tích bài thơ này, nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận định: “Bài thơ không hề là một lời tố cáo đầy phẫn nộ, lại không phải là một bài hịch. Không phải là một tiếng sấm. Ngược lại, như tôi đã so sánh ở trên, đây là những lời ru hiền hòa, lời vỗ về của mẹ, lời thì thầm của lá, của hoa, của cây cỏ. Không phải là mũi nhọn công phá vào vách khám mà là một làn hương tỏa lên trên, len qua kẽ ngục và tỏa rộng lên trời cao.” (6) Tôi đồng ý với Nguyễn Mộng Giác. Nếu lưu ý, ta sẽ nhận thấy Tuệ Sỹ rất hiếm những bài “thơ (tải) đạo”: quảng bá giáo lý hay răn dạy đạo đức. Do đó, thơ Thầy ít thuật ngữ và ý niệm tôn giáo, không có cái “chay” (tịnh) của một nhà tu, trái lại, “mặn” (mà) nhân tình thế thái: “Trong ta là núi là rừng Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi” (Thân phận/trong Tô Đông Pha) “Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về” (Lô Sơn/trong Tô Đông Pha) Ngay cả khi diễn tả một vị sư xuống núi, “Hạ sơn,” ta cũng thấy toàn mùi vị trần gian: sờn, mòn, hờn, đường cùng, bóng tối, rưng rưng, trầm, ho, ác mộng. “Ngày mai sư xuống núi Áo mỏng sờn đôi vai Chuỗi hạt mòn năm tháng Hương trầm lỡ cuộc say Bình minh sư xuống núi Tóc trắng hờn sinh nhai Phương đông mặt trời đỏ Mùa hạ không mây bay Ngày mai sư xuống núi Phố thị bước đường cùng Sư ho trong bóng tối Điện Phật trầm mông lung Bình minh sư xuống núi Khóe mắt còn rưng rưng Vì sư yêu bóng tối Ác mộng giữa đường rừng” Nói như thế không có nghĩa là Tuệ Sỹ không có thơ đạo, thơ thiền. Nhưng thay vì nặng về từ ngữ, Tuệ Sỹ sử dụng một bút pháp khác, có tính cách “thơ” hơn, chứa đựng nhiều hình ảnh hơn, do đó, sống động và cụ thể hơn: “Thời gian đi khấp khiểng Để rụng phấn rơi hồng Tơ nắng dài tâm sự Bồi hồi mộng vẫn không” Chỉ có 20 chữ, nhưng chúng trộn lẫn màu sắc, tâm tình, ý thức và cảm xúc vào nhau, tạo nên một mùi vị lạ, có vẻ “thoát tục,” “thiền;” mùi này đậm hay nhạt, tùy theo cách cảm nghiệm của mỗi người. Đó là nét rất riêng của Tuệ Sỹ. Nhưng “thiền” nhất, theo tôi, nằm trong bài thơ dài 13 khổ, “Thiên Lý độc hành” (7). Đa phần các khổ thơ được làm theo lối tứ tuyệt (bốn câu), diễn tả bước du hành của một người lữ khách cô độc, khởi đầu ở chỗ: “Ta về một cõi tâm không Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn” Một mình và tâm không, lữ khách đi, hết ngày đến đêm, hết mưa đến nắng, hết mùa đến mùa, qua đèo, qua rừng, qua suối, qua triền đá, bờ lau, nếm trải đủ thứ mùi đời, với một dấu hỏi không nguôi ném vào cuộc nhân sinh: ta là ai? chờ ai? đợi ai? từ đâu? về đâu? -“Đã mấy nghìn năm đợi mỏi mòn Bóng người cô độc dẫm hoàng hôn Bởi ta hồn đá phơi màu nắng Ôm trọn bờ lau kín nỗi buồn” -“Từ thuở hồng hoang ta ở đâu Quanh ta cây lá đã thay màu Chợt nghe xao xuyến từng hơi thở Thấp thoáng hồn ai trong khóm lau” Bài thơ kết thúc bằng một lời nhắc nhở bất ngờ: “Khi về anh nhớ cài quai nón Mưa lạnh đèo cao không cõi người” Đọc xong, tôi cảm thấy thấm thía, nhưng không rõ thấm thía cái gì! Vì phải “cài quai non” hay vì cái cảnh “mưa lạnh đèo cao” lại “không cõi người?” Hiệu ứng thơ thuờng mông lung như vậy. Thầy Tuệ Sỹ đánh đàn. (Hình: Facebook Thư Viện Phật Việt)
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2023/11/VHNT-Thich-Tue-Sy-tieu-bieu-3-1920x1204.jpg Nhưng đặc biệt hơn hết, Tuệ Sỹ… yêu. Yêu, nên làm thơ tình. Một nhà tu làm thơ tình, quả là điều xưa nay hiếm! Tuy số lượng không nhiều, nhưng những bài thơ tình của Tuệ Sỹ rất… tình: thắm thiết, da diết, nồng nàn. “Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa Nghe tình ca trên giọt sương tan Bóng tôi xa đêm dài phố thị Nhớ con đường thơm ngọt môi em” Hai câu thơ và cả tựa đề của nó, “Nhớ con đường thơm ngọt môi em,” nghe phảng phất Nguyên Sa. Thơ tình Tuệ Sỹ có thể là về một người mà mình yêu, có thể là về một bóng hình, một nhân dáng nào đó, cũng có thể là nỗi nhớ vu vơ về một “Em nhỏ:” “Ôi nhớ làm sao, Em nhỏ ơi! Từng đêm ngục tối mộng Em cười Ta hôn tay áo thay làn tóc Nghe đắng môi hồng lạnh tím người! (…) Cho ta chút nắng bên song cửa Ðể vẽ hình Em theo bóng mây.” (Cho ta chép nốt bài thơ ấy) Đôi khi chỉ là một gặp gỡ tình cờ: “Mắt em quán trọ của ngàn sao Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào” (Quán trọ của ngàn sao) Cũng có thể chỉ là một ấn tượng thoáng chốc: “Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.” (Thoáng chốc) Nhưng có lúc lại là một nỗi nhớ vô cùng sâu sắc: “Công Nương bỏ quên chút hờn trên dấu lặng Chuỗi cadence ray rứt ngón tay Ấn sâu xuống ưu phiền trên phím trắng Nửa phím cung chỏi nhịp lưu đày” (Những điệp khúc cho dương cầm) Thắm thiết đến thế thì thôi! Dẫu vậy, như ta biết, trong đời sống, Tuệ Sỹ không hề vướng vào con đường tục lụy. Lời thơ, tuy rất tình, nhưng nếu đọc kỹ, chúng chẳng hề mang mùi tục lụy. “Em,” “tóc rối,” “môi em” hay “nụ hôn” chứa đựng vẻ tinh khôi của một thứ tình cảm lý tưởng. “Yêu” mà không “lụy.” “Tình” nhưng không “dục.” Đó là “tình yêu thuần khiết” (amour platonique), thứ tình cảm trai gái hoàn toàn không dính líu đến quan hệ thân xác hay những hình thức lãng mạn khác (hẹn hò, quà tặng…). Điều này không phải là hiếm hoi đối với những người hiến mình cho con đường tu tập, dù thuộc bất cứ tôn giáo nào. Một tình yêu như thế thường xuất phát từ sự tự chế hay từ sự “thăng hoa” (sublimation), hiểu theo nghĩa phân tâm học. Yêu một người mà như yêu mọi người! Mặt khác, về phương diện sáng tác nói chung, thơ Tuệ Sỹ có những tứ thơ khác lạ, rất “tuệ sĩ,” hiếm thấy ở những nhà thơ khác. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Mỗi một tài năng thi ca luôn luôn biểu lộ một cái “riêng” nào đó rất riêng, không ai giống ai. Chẳng hạn ở khổ thơ này: “Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn Treo gót hài trên mái tóc vào thu Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá Rũ mi dài trên bến cỏ sương khô” (Mười năm trong cuộc lữ) Bốn câu thơ hoàn toàn không có gì lạ về mặt từ ngữ, nhưng cách kết hợp chữ, hình ảnh và ý nghĩa tạo ra nét lạ: rong chơi từ hỗn độn, đếm mộng trên từng đọt lá, rũ mi dài, bến cỏ sương khô. Đọc lên những nhóm chữ này, ta cảm thấy bỡ ngỡ y như thể chúng trừu tượng hay có vẻ bí hiểm; nhưng đồng thời, ta lại vẫn hiểu ngay được ý nghĩa của chúng, mặc dầu không thể kiến giải một cách rõ ràng. Những tứ thơ như thế có thể tìm thấy rải rác ở nhiều bài thơ khác. Hoặc đó là những nhóm chữ: khung trời hội cũ, trăng đã gầy vĩnh viễn, những chiều pha tóc trắng, kể chuyện trăng tàn, nông nổi vết sa cơ, điêu tàn vờ vĩnh…; Hoặc đó là nguyên cả một câu thơ: Một lần định như sao ngàn đã định, Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ, Trời không ngưng gió chờ sương đọng… Những tứ thơ như thế đôi khi được hình thành một cách xuất thần: “Khi nắng sớm hôn nồng lên nụ nhỏ” (Bình minh) Chỉ bảy chữ thôi, nhưng câu thơ vẽ ra một bức tranh đẹp. Mặn mà nhất có lẽ nằm ở mấy chữ “hôn nồng” và “nụ nhỏ.” Về điểm này, nhà phê bình Đặng Tiến có một nhận định, theo tôi, là hoàn toàn chính xác: “…ở Tuệ Sỹ đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường như đã thăng hoa, thành một siêu thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát, khó bề lý giải chân phương và đơn phương.” (8) Ở nhiều bài thơ, sự vật và sự kiện cũng như ngôn ngữ rất bình thường nhưng được nhà thơ “cột” chúng lại trong một kết cấu lạ, bất ngờ, đẩy ý nghĩa khiến chúng bay thoát hẳn ra khỏi nội hàm của chúng. Chẳng hạn hình ảnh đối sánh giữa cây trúc và con nhện dưới đây: “Trúc biếc che ngày nắng Hương chiều đuổi mộng xa Phương trời nhuộm ráng đỏ Tóc trắng nhện tơ lòa” (Trúc và nhện) “Trúc biếc che ngày nắng” gợi nên một trạng thái tâm lý bất thường, đó là “hương chiều đuổi mộng xa;” trong lúc đó, “Phương trời nhuộm ráng đỏ” lại cho ta một hình ảnh khác, hoàn toàn có tính cách vật lý, một kết hợp màu sắc rất đẹp:“tóc trắng nhện tơ lòa.” Cả hai tứ thơ đều bất ngờ và độc đáo. Riêng tôi, một trong những bài thơ mà tôi thích nhất là trường ca “Tĩnh thất” (9). Bài thơ gồm 32 khổ mà cũng là 32 bài, tùy cách đọc và cách cảm nhận. Đó là một kết hợp của nhiều thể loại thơ khác nhau: nhị ngôn, tam ngôn, tứ ngôn, ngũ ngôn, lục bát, thất ngôn, bát ngôn, tự do hay hỗn hợp, chứa đựng cả tình yêu, tình nhân thế, tình đời, tình đạo. Nhiều bài ngắn, gọn gàng, hàm súc, từa tựa như lối thơ “hài cú” của Nhật Bản. Ít chữ, nhiều nghĩa, qua đó, cách nắm bắt và diễn tả hiện thực, cách sử dụng ngôn ngữ, cách nén, ép ý nghĩa và ý tưởng của nhà thơ đạt đến mức thượng thừa, theo tôi. Xin trích vài đoạn: Rất hoang vu: “Hoang vu Cồn cát cháy Trăng mù Hoang vu Cồn cát Trăng mù Cỏ cây mộng mị Cơ đồ nước non.” Rất nghịch lý: “Bứt cọng cỏ Đo bóng thời gian Dài mênh mang” (Lấy ngắn đo dài) Rất lãng đãng: “Trời cuối thu se lạnh Chó giỡn nắng bên hè Nắng chợt tắt Buồn lê thê.” Rất khốn khổ: “Lão già trên góc phố uằn quại trời mưa dông Áo lụa gầy hoa đỏ Phù du rụng xuống dòng” Rất hiện thực và trần tục: -“Lon sữa bò nằm im bên chợ; Con chó lạc đến vỗ nhịp trời mưa. Tôi lang thang đi tìm cọng cỏ Nó nhìn tôi vô tư.” -“Lời rao trong ngõ hẻm: Đồng hồ điện! Cầu dao! Công tắc! Những lời rao chợt đến chợt đi. Một trăm năm mưa nắng ra gì, Cánh phượng đỏ đầu hè, ai nhặt?” Trong hai bài thơ trên, nội dung hoàn toàn hiện thực, những câu kết (in đậm) rớt vào khổ thơ như một ngẫu nhiên, một vật lạ từ trên trời rơi xuống khiến toàn bài thơ hoàn chỉnh một cách thần tình, nằm ngoài mọi dự đoán. Thơ Tuệ Sỹ mang phong cách phóng túng của Tô Đông Pha, nhà thơ mà Thầy đặt cho cái biệt danh “những phương trời viễn mộng”: “Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt vời. Thơ và Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau.” (10) Thầy Tuệ Sỹ. (Hình: Facebook Thư Viện Phật Việt)
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2023/11/VHNT-Thich-Tue-Sy-tieu-bieu-2-1920x1920.jpg Tuệ Sỹ, nhà văn Về văn, Tuệ Sỹ không viết nhiều. Nhưng ba truyện ngắn mà tôi được đọc, “Piano Sonata 14,” “Gốc tùng” và “Sư Thiện Chiếu” (11) đều là những sáng tác hay, kết hợp cả lối viết truyền thống lẫn hiện đại. Cũng như thơ, văn Tuệ Sỹ, trước hết, là văn chương của con người, về con người và về cuộc đời. Cả ba truyện đều có nhân vật, cốt truyện, đối thoại, độc thoại; đặc biệt, cả ba đều có cấu trúc lỏng lẻo với kết thúc mở. Đọc xong truyện rồi, độc giả vẫn còn bâng khuâng, không tìm thấy ngay câu trả lời. Đoạn kết trong “Gốc tùng:” “Khi đến gần ông cụ, cậu đứng thẳng người, khẽ cúi đầu. -Dạ, thưa ông, cháu đi. Lại một lần nữa. Ngày mai, trời sẽ có mưa hay gió gì đây. Vào mùa này, Huế thường có sương mù mỗi sáng. Lúc xe ngang qua cầu Trường Tiền, phía dưới kia dòng nước cồn nhỏ thấp thoáng như một hải đảo xa xôi nào đó.” Đoạn kết trong “Sư Thiện Chiếu:” “Sau buổi cơm trưa, chúng tôi cố cầm ông bạn cố tri này ở chơi ít hôm. Nhưng ông nhất quyết từ chối. Hỏi thăm nơi trú ngụ, cũng không nói. Đến nay, cũng đã mấy năm rồi, tôi không biết hỏi thăm ai về sư Thiện Chiếu ngày xưa hay cụ đồ viết mướn ngày nay nữa.” Kết thúc nào cũng lửng lửng lơ lơ, thả lỏng cho trí tưởng tượng của độc giả. “Gốc tùng” có văn phong trong sáng, mới mẻ, hiện đại. Đặc biệt, tác giả áp dụng ý nghĩa của cây tùng trong văn chương cổ điển vào quan hệ gia đình thời nay. Có chút gì hơi chỏi ở cách ví von này, nhưng hình như tác giả Tuệ Sỹ muốn gài vào đó một ẩn ý riêng. Đoạn vào đầu truyện đã nghe khang khác, ngồ ngộ: “Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại, không trao đổi nhau đến cả một chiếc lá đã qua mùa. Vào năm mưa bão nhiều, đôi khi nước dâng cao, từ xa vọng lại như một bãi tuyết trắng ngập nửa thân hình. Thỉnh thoảng vài cánh bướm ghé xuống, không hương sắc của phấn nhụy để bày tỏ một chút tình nồng nhiệt. Cánh bướm lại bay đi, vẫn không một cử chỉ xao động hứa hẹn nào.” Hai nhân vật người ông và đứa cháu nội được xây dựng một cách đơn giản, có tính cách điển hình, nhưng không quá tròn trịa và khuôn mẫu. Thỉnh thoảng, ở vài chỗ, tác giả cố tình để lửng một chi tiết nào đó khiến người đọc cảm thấy như mất dấu. Có lẽ vì thế, khung cảnh và nhân vật tuy hoàn toàn hiện thực, nhưng lại thấp thoáng nét hư ảo như ta thường tìm thấy trong các truyện truyền kỳ hay trong các công án thiền. “Một mùa Xuân nào đó; nước đẫm ướt đầu mấy con vịt, như nhuộm trắng; một cụ già chống gậy tiếp khách. Khách mang theo cả một thời quá khứ của cụ, trong từng bước. Khách hẹn sẽ có ngày ghé thăm lại. Hòn núi trơ trọi trong buổi chiều, y ước đứng mãi đấy để đếm từng buổi nắng quái đi qua (…) Những ánh nắng của buổi chiều lây lất và một mái tóc bạc đứng đợi cái gì đã đi qua và đi mất.” Cuối cùng, “Piano Sonata 14,” theo tôi, là một truyện ngắn hoàn hảo, cả về kỹ thuật, cấu trúc, nội dung lẫn nhân vật. Nhân vật chính là một chú tiểu. Trước hết, hãy khoan nói chuyện hư cấu, mà nói về hình ảnh cụ thể về một chú tiểu có thật ở ngoài đời. Hồi nhỏ, tôi hay theo mẹ đi nhiều chùa ở Huế, do đó, quen với khá nhiều chú tiểu cùng lứa tuổi, có chú đã từng là bạn học ở trong trường. Một chú, sau này là Đại Đức Thích Thanh Tuệ, để lại trong tôi một dấu ấn không thể phai mờ: chú đã tự thiêu tại chùa Phước Duyên vào Tháng Tám, 1963, để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm. Nói chung, tôi rất thương các chú, vì trong lúc ở độ tuổi 6, 8, 9, 10, bọn trẻ con chúng tôi được ăn thịt, ăn cá, đánh bi, đánh đáo, câu cá bắn chim thỏa thích, thì các chú phải khép mình vào khuôn khổ, mặc áo nâu sồng, thức khuya dậy sớm, ăn chay, tụng kinh gõ mõ. Bởi vậy, mỗi khi đi chùa, tôi thường mang theo ít kẹo, có khi là đồ ăn mặn, dấm dúi vào trong túi áo mấy chú hay lợi dụng lúc mấy “ôn” bận bịu, rủ mấy chú ra vườn sau chạy nhảy, hái hoa, đuổi bướm. Các chú vừa thích vừa sợ. Riêng tôi, mỗi lần nhìn mấy chú, tôi cứ băn khoăn trong lòng không hiểu thực sự, trong thâm tâm, mấy chú nghĩ gì, mơ ước gì. Chính vì thế, đưa nhân vật chú tiểu vào truyện là một điều không đơn giản. Nếu “đạo” quá, truyện sẽ khô, cứng; nếu “đời” quá, rất dễ đi quá đà, phóng túng. Ấy thế mà, qua “Piano Sonata 14,” Tuệ Sỹ xây dựng một chú tiểu hết sức sống động, vừa có nét hồn nhiên của một chú bé lên 12 vừa có phong thái nề nếp của một chú tiểu nằm trong khuôn phép. Đồng thời, nếu tinh ý, ta sẽ thấy tác giả khôn khéo rắc vào một chút gia vị thế tục, tuy rất nhẹ nhàng, nhưng thấm thía. Chú tiểu tên Nghi, 12 tuổi đang học lớp Đệ Lục trường công lập. Mẹ chú, không rõ vì lý do gì, mang chú lên giao cho chùa rồi đi mất; về sau, bà chết, được tu viện lập bàn thờ thờ trong chùa. Chú chăm chỉ làm việc chùa, “châm trà, lau bàn ghế và quét dọn trong phòng của sư trưởng. Không ai biết tuổi thơ trôi qua như vậy đang ấp ủ sự gì. Sự thành kính khi bưng ấm trà để vào khay.” Hằng ngày, chú lại phải học về “ý nghĩa của sự vô thường, khổ đau và giả tạo đang đè nặng kiếp người.” Ấy thế mà chú tiểu cũng là một cậu bé nghịch ngợm: thường xuyên trốn chùa ra ngoài đi chơi, qua cổng chính, bằng cách “làm cho một chấn song cửa sắt gẫy hết một đầu, chỉ cần kéo nhẹ qua là lách mình vào lọt. Rồi sau đó nắn lại”, mà sư trưởng tu viện không hề biết. Ghét cái miễu thờ bà ở trong khuôn viên chùa, có lúc, chú hứng thú “leo lên đống ngói đứng đái, xoay người tứ phía y hệt như tưới rau.” Hay “Ăn cắp chuối trên bàn Phật, hay lẻn qua vườn rau nhổ bậy vài bụi cải cho những cuộc kiết tập kín đáo, với bánh tráng mỏng và nước tương dầm ớt thiệt cay.” Một hôm, ra vườn sau, chú khám phá ra một điều mới mẻ: ban đêm, giữa “luồng trăng bạc như sương khuya lấp lánh đang nhảy múa chập chờn trên các luống cải,” chú bỗng nghe một thứ âm thanh “ngọt ngào và quyến rũ” vọng lại từ bên kia con đường. Tò mò, chú không ngần ngại “chui qua hàng rào kẽm gai, băng qua vườn, sang tuốt con đường đất,” tìm đến “một ngôi nhà ẩn sau nhiều bóng cây rậm rạp,” nơi “đang có người chơi đàn.” Ở đó, “Xuyên qua khung cửa sổ, chú thấy một mái tóc chảy dài, nghiêng nghiêng theo âm điệu to nhỏ và tiết điệu buông lơi của tiếng đàn.” À, người đánh đàn là một cô người Huế. Cô mở cửa cho chú điệu vào. Dưới cái nhìn của cô, chú điệu với “Chỏm tóc lệch qua một bên, phủ mép trán. Đôi mắt sáng ngây thơ dưới hàng mi dài và cong.” Khi cười, chú “chớp hai hàng mi tinh nghịch. Nụ cười của trẻ thơ, trong trắng và hồn nhiên, nhưng quá nhỏ nhoi và khiêm tốn giữa một thế giới đòi hỏi quá nhiều sự trang nghiêm và kính cẩn. Tuổi thơ hiếm hoi cho một tâm hồn tập sự săn đuổi những ước mơ ngoài tầm với bắt của con người.” Cô mời chú vào. Và lần đầu tiên chú thích thú nhìn thấy “cây đàn kê sát vách tường nhìn nghiêng ra khung cửa sổ.” Chú đi thẳng lại đó, níu hai tay lên thùng đàn, đôi mắt thích thú cúi nhìn chăm chú những phím đen trắng chen nhau sắp thành một hàng thẳng. Được chủ nhân cho phép, chú “đặt cả bàn tay lên phím đàn và ấn xuống. Âm thanh so le nhau cùng tấu lên. Khi cất tay, chú nghe chúng ngân dài, lẫn vào thùng đàn như đang chìm sâu vào trong bóng tối hun hút phía sau.” Thấy chú thích đàn, cô gái hứa sẽ dạy cho chú học. Chú tiểu hoàn toàn là một đứa trẻ vô tư hồn nhiên, thấy lạ thì thích. Thay vì đợi cô gái chỉ dẫn, chú đập tay lên các phím đàn, bị cô gái la, nhưng rồi chú cũng lại đập tay lên các phím đàn một lần nữa. Cái hồn nhiên, tinh nghịch của một chú bé đi tu tạo nên trong lòng cô gái, Như Khuê, những cảm giác lạ, phức tạp: “Nghi lúc nào cũng cao hứng, Như Khuê tự nhiên thấy mình đã thân thiết với chú vô cùng. Cô muốn hôn lên đôi mắt thần tiên của chú. Cửa chùa không biết có vĩnh viễn khép kín nổi con người có cái phong vận như thế. Nhưng chắc cũng có mấy ai có thể nhìn suốt qua đôi mắt kia mà thấy được bóng dáng của huyễn mộng phù sinh. Cô đâu biết, và chưa bao giờ thấy sự thành kính của chú và đôi mắt mông lung như khói trầm. Dù vậy, ngay lúc này, cô thấy rõ hơn ai hết, có lẽ vậy, sự nóng cháy đam mê trong đôi mắt thần tiên đó. Thế mà cô cũng chưa bao giờ thấy được sự nóng cháy của một ngọn nến lẻ loi giữa đêm khuya tịch mịch. Cô bỗng thấy trong thâm tâm mình bây giờ y hệt như một họa sĩ vẽ trúc đã mọc đầy trúc trong bụng. Cô mong cho sự nóng cháy kia không sớm bị dập tắt dưới những kỷ luật lạnh lùng nơi tu viện. Cô có cảm giác mười đầu ngón tay của mình đang vuốt nhẹ lên mặt hồ với những lượn sóng nhỏ.” (…) “Như Khuê nghe cánh tay chú đụng vào người. Cô nhìn lại. Chú đang kéo chỏm tóc sang một bên.” (12) Cảm giác đó khiến cô gái đâm ra bồn chồn. Tâm trạng này chỉ được phác qua vài nét lửng lơ, nhưng bao hàm nhiều gợi ý: “Cô thích được nắm chỏm tóc của chú mà vuốt dài xuống. Cô đứng tựa mình lên khung cửa và nhìn lên bầu trời. Trăng khuya, lác đác vài ngôi sao. Một ngôi sao… xa quá… Khi chú đi rồi, “Như Khuê đứng nhìn bóng trắng khuất ngoài hàng rào bông bụp.” Trong phần kết thúc, truyện bỗng dưng chuyển sang vị sư trưởng: “Ngang qua thiền thất, Nghi thấy sư trưởng bắc ghế ngồi nhìn ra phía trước cổng. Cổng sắt đã khép kín. Con đường kéo dài bất tận. Tiếng đàn buông lơi và chạy suốt, mất hút ngoài kia. Nghi lén nhìn sau lưng sư trưởng và sư trưởng thì nhìn vào bóng tối của con đường vì sư biết đó là Piano Sonata 14 với tiến nhịp của sustenuto, chậm nhưng vĩnh viễn chìm sâu trong bóng tối như những làn sóng nhỏ ôm bóng trăng mà ngủ vùi trên bến cát.” (14) Lúc đầu, truyện tập trung vào nhân vật chú tiểu Nghi, rồi đột ngột chuyển qua nhân vật Như Khuê, và cuối cùng, đột ngột chuyển một lần nữa qua vị sư trưởng. Dù chỉ bằng một dòng ngắn ngủi ở cuối truyện, vị sư trưởng trở thành một phần “chưa nói ra hết” của câu chuyện. Chả là vì, hàng đêm, khi tiếng đàn dương cầm vang lên tấu khúc “Khúc Nhạc Dưới Trăng” (Piano Sonata 14 hay Moonlight Sonata) của Ludwig van Beethoven chỉ gợi trí tò mò của chú tiểu thì lại lắng đọng sâu xa trong tâm hồn vị sư trưởng đang chịu trách nhiệm dìu dắt cả một lứa đệ tử tóc đang còn để chỏm, nhưng là tương lai của giáo hội sau này. Hai nhân vật cô gái và vị sư trưởng thì tôi không rõ, nhưng có lẽ có một phần của chú tiểu Nghi trong Tuệ Sỹ! Tôi được nghe Tuệ Sỹ chơi tấu khúc “Piano Sonata 14” nhiều lần ở trong phòng của Thầy tại Đại Học Vạn Hạnh cùng với nhiều ca khúc thời thượng khác thuở đó: “Diễm xưa,” “Gọi tên bốn mùa,” “Nắng thủy tinh,” “Mùa thu chết”… Thầy đàn rất hay, nhuần nhuyễn và đam mê. Những ngón tay dài, nhỏ nhắn của Thầy chạy thoăn thoắt trên phím đàn piano trông rất điệu nghệ, đến nỗi Quỳnh Thu, một cô bạn gái của tôi, sinh viên Vạn Hạnh, thỉnh thoảng lại nài nỉ tôi dẫn cô đến phòng để nghe Thầy đánh đàn. Thầy bảo, Quỳnh Thu có đôi mắt rất đẹp. Một cô bạn khác, Phương Huệ, nữ tu xuất Công Giáo, bạn cùng lớp với tôi, cũng thế, lâu lâu lại ghé đến, yêu cầu Thầy đàn. Phương Huệ khen hai bàn tay Thầy xinh xắn, dễ thương.
Chân dung Thích Tuệ Sỹ. (Tranh: Đinh Cường) https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2023/11/VHNT-Thich-Tue-Sy-tieu-bieu-4-scaled.jpg Tuệ Sỹ, nhà chính luận Là một nhà giáo, dạy ở tu viện cũng như ngoài đời, lại có lúc đảm nhận trọng trách của một vị lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nên ngoài chuyện nghiên cứu kinh sách Phật Giáo, Tuệ Sỹ rất quan tâm đến những vấn đề vừa đạo vừa đời. Thầy viết khá nhiều tham luận về văn hóa, giáo dục, xã hội và tư tưởng, thẳng thắn phê phán những sai trái, tiêu cực và đưa ra những giải pháp cho các vấn đề nêu ra: “Văn minh tiểu phẩm,” “Thư gửi các Tăng sinh Thừa Thiên-Huế,” “Trí thức phải nói,” “Đạo Phật với thanh niên,” “Suy nghĩ về hướng giáo dục cho tuổi trẻ,” “Tuổi trẻ lên đường,” “Thi ca và tư tưởng,” “Giữa thời đại và nhân sinh,” “Tư tưởng là gì,” “Sự hủy diệt của một trào lưu tư tưởng,” “Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo”… Tôi ghi nhận một số điểm sau: 1. Một trong những vấn đề tâm huyết của Thầy là vai trò tuổi trẻ đối với đất nước và đạo pháp. Sau khi đã nêu lên và phân tích những khó khăn của Phật Giáo dưới chế độ toàn trị, Thầy đề nghị một số giải pháp cụ thể và tích cực: -Đối với những người tuổi trẻ đi theo đường đạo, các tăng sinh phải chọn thái độ dứt khoát: +Một là, “không buông mình chiều theo mọi giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền bạo lực;” +Hai là, “Chớ khoa trương bảo vệ Chánh pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho Ma vương, là nơi tụ hội của cặn bã xã hội;” -Và ba là, “Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức.” (15) -Đối với các bạn trẻ theo đường đời, “Các bạn trẻ ấy tự tìm thấy hình thái đạo Phật thích hợp với mình,” không nên rập theo “khuôn mẫu do bởi các anh chị trưởng, do các đại đức, thượng tọa, hay do các nhà nghiên cứu uyên bác.” Thay vào đó, tuổi trẻ “hãy đi con đường do chính ta lựa chọn, không cần gì phải lắt nhắt theo dấu vết của Như Lai.” Vì sao? Thầy khẳng định: “Không có đạo Phật chung chung cho đồng loạt tuổi trẻ. Mỗi cá nhân tuổi trẻ là biểu hiện của mỗi hình thái đạo Phật sinh động.” (16) Theo tôi, đó là những lời khuyên thẳng thắn, can đảm, phù hợp với điều kiện và nhu cầu của thời đại. 2. Trong “Văn minh tiểu phẩm” (17), tham luận độc đáo nhất của Thầy, Tuệ Sỹ lên tiếng phê phán quan niệm cho rằng: -Việt Nam chỉ có văn học từ khi có chữ quốc ngữ. -Không có một nền văn học gọi là văn học Phật Giáo; nếu có, thì đó không phải là văn học Việt Nam. Theo Thầy, quan niệm hoàn toàn sai lầm này xuất phát từ hai yếu tố: -Hạn chế về mặt ngôn ngữ: Tất cả các tác phẩm văn học đều viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. Các thế hệ sau chỉ biết chữ quốc ngữ qua ký tự La Tinh, nên không đọc và hiểu được chữ Hán và chữ Nôm. -Tác động chính trị bên ngoài: sự thống trị của thực dân và sự truyền bá Thiên Chúa Giáo. Tuệ Sỹ quả quyết: “Chính hai yếu tố tác động này đã khiến cho nhiều trí thức Việt Nam bị bứt khỏi gốc rễ truyền thống.” Thầy không phủ nhận giá trị của ký tự La Tinh. Tuy nhiên, theo Thầy, đó “không phải là loại hình ký tự duy nhất để tiếp cận khoa học.” Có rất nhiều “khái niệm cũng như nhiều định lý toán học được khám phá không phải do các tư duy và các thuật toán được thực hiện thông qua ký tự La Tinh.” Mặt khác, dù có ký tự La Tinh, nhưng cho đến nay, Việt Nam chẳng hề chứng tỏ được đất nước “tiến bộ hơn Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn hay Thái Lan” là những quốc gia chỉ sử dụng thứ ký tự mà tổ tiên họ đã truyền lại từ cả ngàn năm nay. Không những thế, Việt Nam còn đi chậm hơn họ cả hàng chục năm. Điều đó chứng tỏ, ký tự chẳng phải là “yếu tố quyết định cho tiến bộ văn minh.” Tuệ Sỹ khẳng định: “Chữ viết mà chức năng là ký hiệu truyền đạt, và là biểu tượng của tư duy, tự bản chất, phản ảnh phong thái sinh tồn của một dân tộc trong ý thức cá biệt của nó, đồng thời cũng phản ảnh lối quan hệ và ảnh hưởng hỗ tương giữa các dân tộc. Không thể nói loại hình nào ưu việt hay tiện lợi hơn loại hình nào. Người học chữ Hán cho đến một trình độ nào đó sẽ thấy rằng chữ ‘Uất’ gồm 29 nét không phải là khó nhớ hơn chữ ‘Nhất’ một nét. Nói rằng chữ Nôm phức tạp cho nên không tiện lợi để phổ biến cho bằng chữ La Tinh, điều này chỉ đúng cho những người mà não trạng đã quen với tập tính lười biếng.” Mặt khác, cũng trong bài viết này, Tuệ Sỹ thẳng thắn chỉ trích chính sách đối với Phật Giáo của nhà cầm quyền Cộng Sản. Theo Tuệ Sỹ: “Sự xuất hiện sau năm 1982 của một tổ chức được mệnh danh là giáo hội, mà thực chất là một tổ chức chính trị nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam do cán bộ Cộng Sản lãnh đạo, cho thấy trước sau như một, đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng các biện pháp kinh điển xã hội chủ nghĩa được thi hành tại Liên Xô cũng như tại Trung Quốc và trong tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác.” Hậu quả là: “Một thứ Phật Giáo theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn quái dị hơn một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhiều phê bình gia kinh tế nhận xét.” Thầy ví von một cách chua chát: “Sự gán ghép đạo pháp vào chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào buộc con chó nhà và chó sói vào một sợi dây, để khi có sự biến, một con tìm cách chui xuống gầm giường, một con cố gắng phóng mình trở lại rừng. Hai con thú giằng co nhau bởi một sợi dây oan nghiệt.” Nhận thức đó khiến Thầy luôn luôn giữ thái độ của một kẻ sĩ, “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất,” ngay cả khi đứng trước mặt cán bộ nhà nước: “Hôm trước ở bên Châu Lâm ông Ngọc có lên thăm và nói chuyện, tôi cũng có nói vấn đề này: Vấn đề giáo hội nằm trong mặt trận, tôi không chấp nhận. Còn vấn đề liên hiệp giữa hai giáo hội, Tôi nói lập trường của chúng tôi là không có vấn đề liên hiệp. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, đó là một tổ chức chính trị; chúng tôi không làm chính trị, không liên hiệp với bất cứ tổ chức chính trị nào. Rồi người ta có nói rằng trong quy chế, trong Hiến Pháp mình thì đảng lãnh đạo tất cả. Tôi nói tôi biết điểm đó. Tôi còn biết Lenin đã nói ‘đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng.’ Lenin nói, cán bộ Cộng Sản nào mà đàn áp tôn giáo là phản động. Lenin không chấp nhận chuyện đàn áp tôn giáo; trong Cộng Sản không có chuyện đàn áp tôn giáo, đó là Lenin đã chỉ thị. ‘Đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng’ có nghĩa là tôn giáo là một công cụ chính trị của đảng. Vì đảng không đủ khả năng tập họp, phải mượn tay tôn giáo tập họp giùm. Mà tôi không bao giờ để cho Phật Giáo làm công cụ cho bất cứ đảng phái chính trị nào. Như Liên Xô, một đảng phái chính trị, 70 năm thì sụp. Cứ cho là đảng Cộng Sản Việt Nam tồn tại 1000 năm nữa đi, tôi cũng không bao giờ đem 2500 năm lịch sử truyền thừa Phật Giáo ra làm công cụ cho bất cứ đảng phái nào. Tôi còn nói: ‘Nếu mà lời nói này của tôi là tự đào hố chôn mình, tôi vẫn sẵn sàng tự chôn mình, chứ không thể chấp nhận chuyện đó. Còn nếu nói là luật pháp, đúng, tôi tôn trọng luật pháp, nhưng luật pháp mà xâm phạm lý tưởng của tôi, tôi không chấp nhận cái luật pháp đó, chứ đừng có dùng chữ luật pháp với tôi.’ Đúng là ở trong đất nước nào thì phải tôn trọng luật pháp đó, nhưng nếu tự mình đặt ra luật pháp để dùng luật pháp đó xâm phạm tới giá trị, xâm phạm lý tưởng của người khác thì tôi không chấp nhận luật pháp đó, tôi sẵn sàng chịu chết. Tôi đã từng đứng trước bản án tử hình rồi, tôi không sợ, tôi chấp nhận nó. Đây không phải tôi thách thức, mà là vấn đề lý tưởng của mình…” (18) 3. Đánh giá về xã hội Việt Nam hiện nay dưới chế độ Cộng Sản qua bài “Trí thức phải nói!,” Thầy thừa nhận, Việt Nam có “những đổi thay từ trên thượng tầng, thấy được sự giầu sang của đất nước qua những tiện nghi vật chất từ các khách sạn năm sao dành cho cán bộ cao cấp và khách nước ngoài.” Nhưng thực ra, đàng sau cái xã hội tiêu thụ hào nhoáng ở sân trước là những “rác rưởi phế thải được dồn ra sân sau.” Thầy quả quyết, Việt Nam đang là “một đống rác khổng lồ,” là “kho chứa tất cả những gì xấu xa nhất của nhân loại văn minh.” (…) “Đất nước đã thấm bao nhiêu xương máu của bao nhiêu thế hệ ông cha và bè bạn để dồn lại thành những đống rác như thế, những đống rác càng ngày càng to phình lên một cách khủng khiếp.” (19) Nhìn lại hiện tình đất nước mấy chục năm qua và ngay cả hiện nay, quả là Thầy không hề quá lời! 4. Một luận điểm quan trọng khác, tương quan giữa văn học và Phật Giáo, được Thầy soi sáng trong bài “Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo.” Nghiên cứu tương quan giữa văn học và tôn giáo, Thầy nhận thấy có một sự nghịch chiều (mà Thầy gọi là “song quan luận”) giữa hai lãnh vực: “Người ta sẽ không đòi hỏi tác giả phải có một phong cách độc đáo trong đường lối phô diễn; y khỏi phải nỗ lực vận dụng mọi khả năng sáng tạo đến mức tuyệt động, vốn là giá trị đặc sắc của một tác giả văn học – thuần túy. Như vậy, một khi nội dung của kinh nghiệm tôn giáo càng được nới rộng, thể tài văn học càng bị thu hẹp lại. Cho đến một lúc nào đó, lúc mà kinh nghiệm tôn giáo được mở rộng đến vô hạn và tận cùng trong tuyệt đối bất khả tri, người ta bị bắt buộc phải khước từ mọi phương tiện diễn đạt qua các thể tài văn học. Đây là một song quan luận của phương tiện (văn học) và cứu cánh (tôn giáo).” Vì thế, theo Thầy, nếu “khai triển phương tiện đến tận cùng thì cứu cánh sẽ vắng bặt. Ngược lại, nếu tiến đến chỗ tuyệt đối cứu cánh, phương tiện sẽ hết còn là phương tiện. Nói cách khác, hình như cứu cánh tôn giáo, với những chân lý thành kiến của nó, lúc nào cũng sẵn sàng phản bội mọi tính cách sáng tạo của văn học. Văn học không phải là phương tiện của bất cứ một chân lý cứu cánh nào, thành kiến hay không thành kiến, dù là chân lý về sự sống và cuộc đời; vấn đề sẽ mở sang một chiều hướng khác: đâu là phương tiện và đâu là cứu cánh của văn học?” (20) Thầy đề nghị giải quyết vấn đề nêu trên bằng ba giải pháp sau: -Sơ khởi văn học Phật Giáo không từ chối vai trò “truyền đạo” của nó. Tức là, chân lý của tôn giáo này, tùy trường hợp, được phô diễn tự do trong mọi thể tài văn học, và coi văn học chỉ như một phương tiện, thứ yếu, không quan trọng cho bằng nội dung. -Nhưng, chân lý ở đây mang tính cách nội tại và cá biệt nơi mỗi người, do đó, sự phô diễn của nó cũng bắt đầu như sự bắt đầu của một tác phẩm văn học, nghĩa là, khởi đi từ cảm hứng bộc phát trước một thế giới của kinh nghiệm tâm linh. -Trên khía cạnh tôn giáo, chân lý được chứng ngộ là phản ảnh của một thế giới sống động. Trên phương diện diễn đạt của văn học là cảm hứng tự phát của một tình tự cá biệt. Do đó, lấy tánh Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới toàn diện của văn học Phật Giáo. (21) Cách lý luận có tính cách hàn lâm của Thầy về hai lãnh vực văn học và tôn giáo, nói cho đơn giản một chút, thực ra, chính là vấn đề “đạo” và “đời.” Theo tôi, thực không dễ gì tìm ra một giải pháp dứt khoát cho vấn đề. Chọn giải pháp nào là tùy cá nhân và cũng “tùy duyên.” Riêng Thầy, nếu đọc lại thật kỹ các sáng tác thơ, văn của Thầy, thì rõ ràng là Thầy đã chọn thực hành, và thực hành một cách nghiêm túc và sống động, giải pháp thứ ba: “lấy tánh Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới toàn diện của văn học Phật Giáo.”
Tượng Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ tôn trí tại lễ đường chùa Phật Ấn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. (Hình: Giác Ngộ) https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2023/11/VHNT-Thich-Tue-Sy-tieu-bieu-5.jpg Tuệ Sỹ, nhà nghiên cứu Phật Giáo Thầy là một học giả đa tài, đa năng. Công trình của Thầy để lại nhiều, mênh mông và đa dạng. Thầy dành trọn cả cuộc đời để viết, hết tiểu luận đến biên khảo, hết biên khảo đến dịch thuật, về những vấn đề Phật Giáo và kinh sách Phật Giáo: Nghiệp, Trung Quán, Tánh Không, Bồ Tát Hạnh, Kinh Hoa Nghiêm, Tạp A Hàm, Duy-Ma-Cật, Thiền, tìm hiểu về ngã, về tâm ý thức… Dù Thầy không theo học một trường học nào ở ngoài đời, nhưng với vốn liếng ngoại ngữ tự học, Thầy có thể tự mình đi sâu vào tư tưởng triết học của nhiều triết gia Tây phương quan trọng, vừa của cả cổ truyền lẫn hiện đại, do đó, Thầy nắm rất vững những khái niệm triết học căn bản của họ như: tồn tại, hữu thể, hư vô, bản thể, thường nghiệm, siêu nghiệm… Hãy thử đọc một trích đoạn Thầy bàn về bản chất của tư tưởng viết theo lối văn hàn lâm thường tìm thấy trong các giáo trình triết học Tây phương ở đại học: “Chúng ta không tư tưởng, không phải vì chúng ta không có cái tư tưởng để mà tư tưởng, nhưng vì cái đó lẩn tránh chúng ta. Bởi vì cái tư tưởng đích thực thì ẩn giấu, lẩn khuất, không biểu lộ; cái biểu lộ chỉ là tác dụng công dụng của nó. Chúng ta đặt lại vấn đề; và chủ đích được nhắm đến là hiệu quả của cung cách đặt lại vấn đề sẽ xảy ra như thế nào. Mọi cái xuất hiện cho ta chỉ có ý nghĩa ở cái công dụng của nó, nghĩa là chúng xuất hiện với tư cách là Dụng tính (Zuhandensein) chứ không như là Thể tính. Chúng ta tư tưởng, nói thế cũng có nghĩa là chúng ta cưu mang Dụng tính, nghĩa là cưu mang tính cách ích dụng mà một sự thể, một vật hay một người, có thể mang lại cho ta.” (22) Về tư tưởng Phật Giáo, ngoài thế mạnh của một người tu học, Thầy lại thông hiểu cả sinh ngữ (Anh, Pháp, Đức) lẫn cổ ngữ (Hán, Phạn, Pali), nên Thầy có thẩm quyền hơn bất cứ ai khác khi biên soạn, thảo luận, đối chiếu và đánh giá lại những vấn đề căn bản trong tư tưởng Phật Giáo. Mặt khác, do thấm nhuần phương pháp lý luận triết học của Tây phương và do tiếp cận và thấu hiểu tinh thần của những bản kinh văn cổ, điều mà các học giả Tây phương thiếu sót, nên cách trình bày tư tưởng Phật Giáo của Thầy trong các công trình biên khảo lúc nào cũng rõ ràng, sâu sắc và thuyết phục, không bị thiên kiến tư tưởng Đông hay Tây chi phối. Theo tu sĩ Thích Nguyên Siêu: “Thầy đã đơn đao đột kích phá tung nền triết học Tánh Không, khai quật và trình bày giá trị sâu thẳm tận cùng tư tưởng Trung Quán, phiên dịch giảng giải Trí Độ luận, để từ đó, hình ảnh chư Tổ Đức, luận sư nổi tiếng, vang danh oai đức như Tổ Long Thọ, người bấy giờ tôn xưng là Đệ Nhị Thích Ca, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh, Huyền Trang, La Thập, Tăng Duệ, Tăng Triệu… dường như quá gần gũi, quen thân với Thầy. Vì tất cả các tác phẩm trước tác, dịch thuật của chư Tổ, như là sách gối đầu giường của Thầy, còn Tam Tạng kinh điển, bộ Đại Tạng, chẳng bộ nào mà Thầy không giở đọc. Người viết đã học với Thầy, sau đó cùng Thầy làm việc dịch thuật Trung A Hàm, Kinh Pháp Cú, tuyển tập Nikàya A Hàm… qua những năm 75-77 tại Viện Cao đẳng Hải Đức Nha Trang và 80-84 tại Tu viện Quảng Hương Già Lam cũng là nơi thư viện Vạn Hạnh (Võ Di Nguy, Phú Nhuận) mới thấy được khả năng, trí nhớ trác tuyệt của Thầy. Kinh, luật, luận, Tam Tạng giáo điển, hầu như Thầy nằm lòng tự kiếp nào.” (23) Riêng tôi, là một người thích nghiên cứu về phân tâm học, đặc biệt là vấn đề tâm thức và bản ngã, tôi hết sức thú vị khi đọc hai bài tham luận của Thầy, một là “Truy tìm bản ngã” và hai, “Tâm ý thức.” Nếu trong phân tâm học Freud, cái “ngã” (the ego) là một thực thể tâm lý bị chi phối bởi cái “ấy” (Id) tức là bản năng và cái “siêu ngã” (super-ego) đóng vai trò kiểm soát, thì trong Phật Giáo, cái “ngã” là một ảo tưởng, nghĩa là không có thực, cần phải được phá bỏ (phá chấp) trên con đường giải thoát. Do đó, vô ngã là quan điểm cốt lõi của Phật Giáo. Nói thì đơn giản như thế, nhưng càng đi sâu vào tư tưởng vô ngã, người học Phật càng thấy rối rắm, phức tạp, không dễ gì nắm vững. Để hiểu vô ngã thì trước hết phải hiểu bản ngã. Giải thích về sự hình thành của bản ngã, Thầy sử dụng một ví dụ rất cụ thể: “Có một người mới mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu, gọi Lucky, nó dửng dưng, vô cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đã hiểu Lucky là cái gì, và như vậy nó cũng hiểu nó là cái gì. Nó hình thành một cái vỏ tự ngã mới qua một cái tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự bảo vệ sự tồn tại ấy. Nó tìm thức ăn, tìm chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần như muốn đe dọa, uy hiếp nó. Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại ấy bây giờ tồn tại dưới một cái tên Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc phạm đến cái tên Lucky, nó không có phản ứng gì. Nhưng với một con người, khi cái tên gọi, một cái danh gì đó, mà bị xúc phạm, thì hãy coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi nào đó mới biết nó tên gì, cũng như con Lucky vậy. Rõ ràng cái danh mang nội hàm tự ngã ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh phúc bởi chính cái hư danh đó. Một ông thầy giáo có cái ngã là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ thầy giáo, chức nghiệp nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách. Nó là ông vua, nhưng ban đêm lén ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hãy coi chừng. Tự ngã chỉ là cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do chỗ ngồi, chỗ đứng giữa mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới hình thành trong một đời người thôi, mà đã khó quên, khó trừ như vậy; nếu là cái ngã được tích lũy trong nhiều đời, tất không dễ gì trừ bỏ. Cái ngã của ông xã trưởng chỉ to bằng cái xã của ông. Cái ngã của một quốc vương to bằng cái vương quốc của ông. Cái ngã của một nhà thông kim bác cổ thì dài bằng thời gian kim cổ, rộng bằng không gian đông tây. Cái ngã của một chúng sinh luân hồi trong tam giới, tất cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngã ấy không phải dễ nhận ra. Không nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, thì cũng không thể tận cùng biên giới đau khổ.” (24) Thay vì sử dụng các thuật ngữ triết học để biến những điều đơn giản và dễ hiểu thành những điều khó hiểu (như cách khoe chữ của một số nhà trí thức), trong trích đoạn trên, Thầy đã cố gắng biến những ý niệm khó hiểu thành những điều mà ai cũng có thể hiểu ngay, khiến cho nó dễ dàng đến với những người bình thường, không đòi hỏi một trình độ học vấn chuyên môn nào. Nhưng khi bàn về “Tâm ý thức,” do tính cách tương đối phức tạp của nó, Thầy buộc phải sử dụng cách viết hàn lâm, nhưng vẫn cố gắng không biến thành những điều bí hiểm. Trong lúc ở chữ Hán, tâm đơn giản chỉ có nghĩa là trái tim, tấm lòng hay sự suy nghĩ, thì ở trong tiếng Phạn, tâm được hiểu một cách sâu xa hơn. “Theo tiếng Phạn, tâm (citta) có nghĩa là tích tập. Định nghĩa này được thấy trong kinh Hoa Nghiêm, bản dịch chữ Hán của Bát-nhã (quyển 6): tích tập danh tâm 積集名 心. Nó do gốc động từ là CI (cinoti): tích chứa, tích lũy, tăng trưởng và cũng có nghĩa là quán sát, tri nhận, cảm nhận. Đây là định nghĩa đặc biệt trong thuật ngữ Phật Giáo, đặc biệt là Đại thừa. Nghĩa thông thường của nó, được nói là do gốc động từ cit hay cint (cintayati): tư duy, suy tưởng. Tâm là cái tư duy. Nói tâm là cái tích tập: tích tập gì? Một cách tổng quát, đó là kinh nghiệm hay nhận thức được tích lũy. Vậy tâm là kinh nghiệm đời sống; tất cả những gì đã từng trải, bằng hành động và nhận thức, tích lũy lại thành tâm. Nếu diễn tả ra trong cuộc đời con người, từ khi bắt đầu biết suy nghĩ, biết hành động và có ghi nhớ, cho đến khi chết; tất cả những ghi nhớ trong óc não còn lại đó gọi là tâm.” (25) (…) “Tóm lại, có mấy vấn đề, chúng ta đi từ từ: tâm là sự tích tập, tích lũy kinh nghiệm. Mà kinh nghiệm là hoạt động của nghiệp, nghiệp tạo ra thế gian, nhưng cái tâm thì chúng ta không thể hiểu được, không thể biết được, vì không thấy được mà phải nhìn qua những hiệu quả của nó, tức là những công dụng, tác dụng mà nó gây ra trên mọi thứ tồn tại trong đời. Tác dụng của nó là duy trì sự tồn tại, duy trì mối quan hệ của các sự vật, tồn tại của các pháp.” (26) Để dễ hiểu hơn, Thầy ví von cái tâm trừu tượng đó với một vật cụ thể và hiện đại: máy vi tính. “Con bò ráp nối dữ liệu tích lũy theo kiểu nó; con chuột ráp nối cảnh theo cách của nó, để nó nhìn và hiểu thực tại theo cái cách khác nhau của mỗi loài; mặc dù mắt tai mũi lưỡi giống nhau nhưng sự ráp nối khác nhau. Ta hãy lấy thí dụ về máy vi tính. Các dữ liệu được nhập thông qua bàn phím và con chuột [mouse] là sáu thức. Chúng được lưu trữ như là các chủng tử được tích chứa trong kho chứa thức thứ tám (thức a-lại-da). Tại đó, chúng được đưa vào trung tâm xử lý để chờ xuất. Trung tâm xử lý dữ liệu đó là thức thứ bảy.” (27) (… ) Tự bản chất, chúng là những dạng xung điện có và không, 1 và 0, nhưng do kết cấu của hệ thống vi mạch để nhận xung điện; rồi tùy theo lập trình mà chúng được đưa vào bộ vi xử lý để xử lý, cho ra kết quả với nhiều hình thái khác nhau trên màn hình: núi, sông, nhân vật; khóc, cười, yêu, ghét… đủ mọi cảnh đời. Tất cả đều là do sự ghép nối. Thuật ngữ Phật học gọi sự ghép nối ấy là phân biệt. Đôi khi nói thêm là phân biệt vọng tưởng. Phân biệt, nghĩa là cấu trúc lại thực tại.” (28) Dẫn lại vài trích đoạn trên, tôi không cố ý muốn làm rối trí thêm độc giả về một vấn đề hết sức khúc mắc và tinh tế của Phật Giáo, đòi hỏi phải học hỏi và nghiền ngẫm lâu dài. Tôi chỉ muốn mọi người thấy rõ phương cách làm việc và tấm lòng cao cả của Thầy: tìm cách chuyển tải những vấn đề căn bản của Phật Giáo đến đại chúng thuộc mọi trình độ khác nhau bằng cách sử dụng một văn phong và lập luận rõ ràng, cụ thể. *** Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một tu sĩ Phật Giáo, nhưng những gì Thầy để lại cho hậu thế không chỉ là để truyền bá đạo Phật và dành cho những người Phật tử, mà là một sự nghiệp văn hóa đa dạng, liên quan mật thiết đến cuộc nhân sinh, đến tư tưởng, đến nghệ thuật và những vấn đề nóng bỏng khác của dân tộc trong quá khứ cũng như trong thời hiện đại. Hòa thượng xứng đáng được vinh danh là một trong những khuôn mặt văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. (Trần Doãn Nho) [qd] ———- Chú thích (1) Trần Doãn Nho, “Thầy, trong trí tưởng,” trích từ “Căn phòng thao thức” (tập truyện), Văn Mới, California, 1997. (2) Trần Doãn Nho, “Thầy, trong trí tưởng,” trích từ “Căn phòng thao thức” (tập truyện), Văn Mới, California, 1997. (3) Trần Doãn Nho, “Thầy, trong trí tưởng,” trích từ “Căn phòng thao thức” (tập truyện), Văn Mới, California, 1997. (4) “Tô Đông Pha, những phương trời viễn mộng,” trang 235, tập 3. (5) “Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo,” trang 97, tập 2. (6) Nguyễn Mộng Giác, “Đọc lại thơ Tuệ Sỹ,” trang 73, tập 1. (7) “Thiên Lý Độc Hành,” trang 357, tập 1. (8) Đặng Tiến, “Âm trầm Tuệ Sỹ,” trang 46, tập 3. (9) “Tĩnh thất,” xem ở Thi Viện: thivien.net/Tu%E1%BB%87-S%E1%BB%B9/T%C4%A9nh-th%E1%BA%A5t/poem-mhbvNRVASQxwBEWwdO7jAA (10) “Tô Đông Pha, những phương trời viễn mộng,” tập 3, trang 278. (11) “Piano Sonata 14,” trang 238, “Sư Thiện Chiếu,” trang 247, “Gốc tùng,” trang 251, tập 1. (12) “Piano Sonata 14,” trang 244, 245. (13) “Piano Sonata 14,” trang 246. (14) “Piano Sonata 14,” trang 246. (15) “Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên – Huế,” trang 88, tập 2. (16) “Đạo Phật với thanh niên,” các trang 126-133, tập 2. (17) “Văn minh tiểu phẩm,” trang nhà Phật Việt, xem: https://thuvienphatviet.com/thich-tue-sy-van-minh-tieu-pham/ (18) “Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ kể lại một vài chi tiết về giai đoạn thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và Hòa Thượng Thích Trí Thủ, xem Trang nhà “Thư viện Hoa Sen:” https://thuvienhoasen.org/a8191/thuong-toa-thich-tue-sy-ke-lai-mot-vai-chi-tiet-ve-giai-doan-thanh-lap-ghpgvn-va-ht-thich-tri-thu (19) “Trí thức phải nói,” trang 90-94, tập 2. (20) “Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo,” trang 96, tập 2. (21) “Dẫn vào thế giới văn học Phật Giáo,” trang 98, tập 2. (22) “Tư tưởng là gì?,” trang 136, tập 1. (23) Thích Nguyên Siêu, “Hòa thượng Tuệ Sỹ, Trí Siêu, những thiên tài lỗi lạc,” trang 27, 28, tập 1. (24) “Truy tìm tự ngã,” trang 178, tập 1. (25) “Tâm ý thức,” trang 327, 328 tập 1. (26) “Tâm ý thức,” trang 330, tập 1. (27) “Tâm ý thức,” trang 331, tập 1. (28) “Tâm ý thức,” trang 333, tập 1. Hầu hết những tài liệu trích dẫn trong bài viết đều được lấy từ nguồn “Tuệ Sỹ – Những Phương Trời Viễn Mộng” tập 1, tập 2 và tập 3 do Nguyễn Hiền Đức (Santa Ana, California, Hoa Kỳ) thực hiện (2016). -Tập 1: https://thuvienhoasen.org/images/file/MPQX8XyQ1AgQAFUK/tue-sy-nhung-phuong-troi-vien-mong-tap1.pdf -Tập 2: https://thuvienhoasen.org/images/file/t8qYfIKQ1AgQAC0M/tue-sy-nhung-phuong-troi-vien-mong-tap2.pdf -Tập 3: https://thuvienhoasen.org/a27659/tue-sy-nhung-phuong-troi-vien-mong-tap-3 Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, bậc cao tăng uyên bác từng bị nhà cầm quyền Việt Nam kết án tử hình, đã viên tịch lúc 4 giờ chiều Thứ Sáu, 24 Tháng Mười Một (nhằm ngày 12 Tháng Mười năm Quý Mão), tại chùa Phật Ấn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, theo Hội Đồng Hoằng Pháp thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN). Theo bản tiểu sử do hội đồng đưa ra, “Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15-2-1943 theo khai sanh (gia đình khai tăng tuổi để thầy đi học), tuổi thật sinh ngày 5 tháng 4 năm 1945 (nhằm ngày 23 tháng 2 năm Ất dậu), tại tỉnh Paksé, Lào.” Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ húy thượng Nguyên hạ Chứng, đời thứ 44 Dòng Lâm Tế Chánh Tông và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán, là Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Sau một thời gian nằm bệnh viện, ông được đưa về chùa Phật Ấn hôm Thứ Năm. Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại Học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền Việt Nam, theo trang mạng Quảng Đức. Ông thông thạo tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật Giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung và tiếng Nhật. Lúc bị Việt Nam bắt năm 1984, ông và ông Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), được coi là hai nhà sư uyên bác nhất của Phật Giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển. Ông quy y Phật lúc 7 tuổi, học Phật pháp trong Viện Hải Đức tại Nha Trang, rồi sau đó là tại Thiền Viện Quảng Hương Già Lam tại Sài Gòn. Ông tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Phật Học năm 1964, Viện Đại Học Vạn Hạnh phân khoa Phật học năm 1965, được đặc cách bổ nhiệm là giáo sư thực thụ Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ nhiều công trình nghiên cứu và khảo luận triết học nổi tiếng. Ông là chủ bút của tạp chí Tư Tưởng do Viện Đại Học Vạn Hạnh phát hành. Ông cũng làm thơ, viết một số truyện ngắn đăng trên tạp chí Khởi Hành (1969-1972), Thời Tập (1973-1975). Ngoài ra ông cũng hiểu biết rất nhiều về triết học Tây phương. Ông là người đầu tiên thuyết trình về Michel Foucault tại Việt Nam. Sau năm 1975 ông về lại Nha Trang, đến năm 1977 thì vào sống tại Thị Ngạn Am, chùa Già Lam ở Sài Gòn. Đầu năm 1978 ông bị tù ba năm, đến năm 1980 thì được thả. Ngày 1 Tháng Tư, 1984, ông bị bắt cùng với ông Thích Trí Siêu. Tổ chức Ân Xá Quốc Tế (AI) tin rằng nguyên nhân việc bắt giữ Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu là do hai ông là thành viên của GHPGVNTN, một tổ chức tôn giáo Việt Nam không công nhận và thường xuyên đàn áp. Tháng Chín, 1988, ông và ông Thích Trí Siêu bị Việt Nam tuyên án tử hình vì tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân. Tháng Mười Một, 1988, sau một cuộc vận động quốc tế, bản án giảm xuống còn tù chung thân. Ngày 1 Tháng Chín, 1998, ông được thả về từ trại Ba Sao-Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Một năm sau, vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Hòa Thượng Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi. Theo di nguyện của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ lập ngày 19 Tháng Chín, đăng tải trên trang mạng của Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, kim quan được quàn tại chùa Phật Ân ở Long Thành, tang lễ sẽ do Hòa Thượng Thích Minh Tâm làm trưởng ban tổ chức. Sau đó, nhục thân sẽ đưa đi hỏa táng và tro cốt rải ngoài khơi Thái Bình Dương. Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/thich-tue-sy-khuon-mat-tieu-bieu-cua-van-hoa-viet-nam/