Sunday, December 26, 2021

Vua Duy Tân

https://thuvienhoasen.org/a37022/buoc-chan-dai-sy BƯỚC CHÂN ĐẠI SỸ Huệ Trân Thời gian là cái gì thật mầu nhiệm, không hình không tướng, tưởng như nó dửng dưng, lạnh lùng trước muôn sự, nhưng lại thầm lặng ân cần cất giữ những gì đã đi qua, rồi tùy đối tượng mà hoài niệm. Không ai nắm bắt lại được những tờ lịch đã rơi, nhưng bước chân của bao bậc hiền nhân quân tử đều như còn in hằn trong không gian khi thời điểm luân lưu trở lại theo vận hành của trời đất. Trong không khí se lạnh của thời tiết giao mùa những ngày cuối năm, tôi thường bồi hồi rung động về một dấu mốc lịch sử. Đó là ngày 26 tháng 12, ngày húy kỵ vua Duy Tân, vị vua trẻ dũng cảm phi thường đã quyết tâm bảo vệ giá trị dân tộc, can đảm hậu thuẫn những phần tử yêu nước tranh đấu, trước sự đô hộ của ngoại xâm. Mỗi năm, đến thời điểm này, khi thành kính thắp nén hương trầm bái vọng về tiền nhân, tôi đều thấy rõ nét hơn, là nếu không thấm nhuần phần nào, căn bản giáo lý của Đạo Phật thì vị vua trẻ khó có thể vượt qua những thử thách nghiệt ngã trong khúc quanh lịch sử, khi tuổi đời chưa quá hai mươi! Hôm nay, tôi muốn viết lại câu chuyện này, thay món quà tặng các bạn trẻ, trước cánh cửa một năm mới đang rộng mở. Vào một ngày mùa hạ, khoảng trung tuần tháng bẩy năm 1907, các cung điện trong Đại Nội bỗng diễn ra một cảnh náo loạn. Các thị vệ, quan quân, cung tần mỹ nữ đều được huy động để tìm một vị Hoàng Tử nhỏ. Thôi thì, người chạy ngược, kẻ chạy xuôi, người la kẻ gọi. Súc vật trong cung thấy lạ cũng góp tiếng, đủ cả ngựa hí, chó sủa, mèo kêu, gà gáy…. Tại Chánh điện không khí lại khác hẳn. Phía bên trái là phái đoàn Pháp gồm viên Toàn quyền Đông Dương, viên khâm sứ Trung Kỳ và các viên chức cao cấp khác, ai cũng lộ vẻ hậm hực, bực tức. Phía bên phải là các quan đại thần Việt Nam mặc triều phục, đội mũ cánh chuồn, nét mặt thấp thỏm bồn chồn, lo lắng…Kế đó là những vị Hoàng Tử nhỏ được mặc quần chẽn xanh, đi hài tím và áo khoác mầu vàng nhạt. Các vị Hoàng Tử, nhỏ nhất là ba tuổi và lớn nhất không quá mười tuổi, rụt rè đứng nép vào các quan. Có vị đã thút thít khóc… Chuyện gì xẩy ra thế? Đó là cảnh phái đoàn Pháp vào triều đình Huế, bắt tập họp tất cả các vị Hoàng Tử nhỏ để chọn người kế vị vua Thành Thái vừa bị buộc phải thoái vị. Sau khi các Hoàng Tử trình diện, kiểm điểm lại thì còn thiếu một vị. Đó là Hoàng Tử Vĩnh-San, tám tuổi, con thứ năm của vua Thành Thái. Sau hơn một tiếng đồng hồ chờ đợi, khi sự kiên nhẫn của phái đoàn Pháp sắp bùng nổ thì quan Ngự Sử tất tả chạy vào, mũ áo sốc sếch như vừa trải qua một trận chiến. Trận chiến đó, tuy không long trời lở đất nhưng chắc cũng vất vả không ít vì kẻ bị bắt - vị Hoàng Tử tí hon – tuy đã bị lôi xềnh xệch ra tới sân đình nhưng vẫn không ngừng la hét, không ngừng múa máy tay chân để phản đối quan Ngự Sử đã ngang nhiên cho lính lệ vào phòng làm huyên náo, khiến cho hai con dế cưng của Hoàng Tử đang đấu võ, sợ quá, nhảy tuốt vào gầm giường. Hoàng Tử chui vào theo thì bị hai tên lính lệ kéo chân ra. Rồi thì, đứa xốc nách, đứa nắm tay và Hoàng Tử đã bị đưa ra trình diện triều thần và phái đoàn Đông Dương trong hình ảnh một chú bé ngỗ nghịch, tóc tai bờm xờm, áo quần nhầu nát. Hoàng Tử nghe các quan xin lỗi phái đoàn Pháp khi đã trình diện Hoàng Tử trong tình trạng không được chỉnh tề như thế này, vì Hoàng Tử sợ ……bị chọn làm vua nên đã trốn dưới gầm giường! Khi tìm được, các quan đành mang thẳng Hoàng Tử ra đây vì mọi người chờ đợi đã quá lâu rồi! Nghe thế, Hoàng Tử Vĩnh-San bỗng ngưng la hét, vùng vẫy. Tuy mới tám tuổi, Hoàng Tử cũng cảm nhận được rằng các quan đang nói dối với phái đoàn Pháp,tuy không biết tại sao phải nói dối như thế! Riêng phái đoàn Pháp, khi nghe quan Ngự Sử nói là Hoàng Tử Vĩnh-San đi trốn vì sợ bị bắt làm vua thì họ nhìn nhau mỉm cười. Họ biết rằng họ đã chọn được người lên ngôi, không cần phải duyệt xét lại tất cả các Hoàng Tử đang trình diện. Đối với họ, một cậu bé nhát gan, chạy trốn, sẽ là vị vua ANam lý tưởng để họ dễ sai bảo. Và họ quyết định nhanh chóng. Hoàng Tử Vĩnh-San được chọn để chuẩn bị làm lễ đăng quang, niên hiệu là Duy Tân.
https://thuvienhoasen.org/images/file/jTKkc6zH2QgBANks/w258/vua-duy-tan-luc-dang-quang-lam-vua.jpg Vua Duy Tân lúc đăng quang lên làm vua năm 1907 Đó là một quyết định sai lầm của chính phủ Pháp và cũng là định mệnh khốc liệt của vị Hoàng Tử tám tuổi, nhưng tự ái dân tộc và tình yêu Tổ quốc, đồng bào đã chan hòa trong trái tim bé nhỏ… Lễ đăng quang được tổ chức vô cùng trang nghiêm, trọng thể. Tại sân điện Thái Hòa. Các quan mặc triều phục, tề tựu đông đủ. Phái đoàn Pháp thì có một toán lính bồng súng đứng bên để bảo vệ an ninh. Ngoài ngọ môn thì có voi, ngựa, được mặc đai kết chỉ ngũ sắc, bên cạnh có lính lệ che lọng đứng hầu. Khi 21 phát súng lệnh báo hiệu lễ đăng quang bắt đầu thì Hoàng Tử bước xuống khỏi ngai. Ngài mặc áo long bào, đầu đội mũ cửu long, lưng đeo đai ngọc, sắc mặt trang nghiêm chững chạc. Viên Toàn Quyền Đông Dương đọc bài chúc từ dài hơn một tiếng đồng hồ mà vị Hoàng Tử tí hon vẫn đứng yên lặng lắng nghe từ đầu đến cuối, làm ngạc nhiên tất cả mọi người hiện diện. Chưa hết, khi viên Toàn Quyền dứt lời, trở về chỗ ngồi cạnh ngai vàng thì vua Duy Tân nghiêng đầu qua, hỏi nhỏ bằng tiếng Pháp, giọng châm biếm “Đọc diễn văn dài thế, Ngài không mệt sao Ngài?” Suốt buổi lễ đăng quang, phái đoàn Pháp không hề nhìn thấy ở vị vua tí hon, hình ảnh cậu bé khờ khạo, nhút nhát như họ mong muốn!
Quả đúng như vậy! Khi người Pháp chọn Hoàng Tử Vĩnh-San lên ngôi, họ không ngờ đã để lại bộ Việt sử của chúng ta những trang sử vàng son đầy hãnh diện về một vị vua trẻ tuổi bất khuất, can trường. Lên ngôi khi tám tuổi đã đối đáp lưu loát với người Pháp, năm mười ba tuổi, Ngài đã tự tay thảo lá thư trách cứ chính phủ Pháp không thi hành đứng đắn hòa ước 1884. Rồi chỉ hai năm sau đó, vị vua trẻ đầy lòng yêu nước thương dân đã can đảm liên lạc với các nhà cách mạng trong Việt Nam Quang Phục Hội với ước mong tìm được biện pháp lật đổ ách thống trị của ngoại xâm, hầu đem lại độc lập cho xứ sở. Khi âm mưu đảo chánh bị bại lộ, người Pháp truyền đem kiệu tới, buộc vua Duy Tân trở lại triều. Ngài từ chối bước lên kiệu và nói rằng ‘Nếu muốn tiếp tục làm vua bù nhìn thì ta đã ở lại cung điện chứ bôn ba vất vả làm chi! Ta chỉ muốn làm một người dân trong một nước được độc lập” Sau đó, dù Ngài đã nhận hết trách nhiệm, mong cứu mạng những người yêu nước lãnh đạo cuộc nổi dậy nhưng người Pháp vẫn đem lão tướng Trần Cao Vân và dũng sĩ Thái Phiên ra hành hình rất dã man để cảnh giác vua Duy Tân cũng như uy hiếp tinh thần dân chúng! Uy vũ không sợ, danh vọng chẳng màng mà ý chí quyết giành lại độc lập cho xứ sở không bao giờ nguôi ngoai trong lòng vị vua trẻ khiến người Pháp, sau nhiều lần đe dọa, đã quyết định đầy vua Duy Tân sang đảo Réunion xa xôi bên Phi Châu. Khi đó nhà vua mới vừa 17 tuổi!
Đảo Reunion nơi vua Duy Tân bị Pháp lưu đày khi Ngài mới 17 tuổi
Thái tử Nguyễn Phúc Vĩnh San tại nhà ở Saint Denis, Reunion Điều gì có thể giúp nhà vua đứng vững trong cảnh huống này, nếu không là Lòng Từ Bi, không là thấu hiểu Nhẫn Nhục Ba La Mật, để thay vì sân hận, tuyệt vọng, là vận dụng Chánh Tư Duy, nảy sanh Tinh Tấn Ba La Mật và Trí Tuệ Ba La Mật, mà đối phó với hiện tại? Phải khí phách biết bao! Phải chánh niệm nhường nào, để bước không chùn, để lòng không lụy, để kẻ thù không khinh, để đồng bào không thất vọng? Với năng lực Đạo Tâm tiềm ẩn và sức mạnh vô hình của hồn thiêng sông núi phò trợ, vị vua trẻ bị lưu đày đã khắc phục khó khăn bằng niềm tin sắt đá. Với số tiền cấp dưỡng ít ỏi, Ngài hăng hái nghiên cứu ngành vô tuyến điện học, là môn học Ngài vốn có năng khiếu từ nhỏ. Để tạo mối giao hảo với dân chúng địa phương, Ngài khéo léo biến nơi cư ngụ thành một cửa hàng khiêm nhường chuyên sửa chữa đồ dùng điện tử. Dân địa phương đã đến địa chỉ số 41 đường Labourdonnais không phải chỉ vì yên tâm là máy móc của họ được sửa chữa cẩn thận mà còn đến đó vì tư cách điềm đạm, sự hiểu biết uyên thâm của vị vua ANam trẻ tuổi. Dưới mắt người dân hải đảo Réunion thì, qua hình ảnh vua Duy Tân lịch lãm, can trường, họ đã nghĩ về nước Việt Nam như một huyền thoại đẹp mà nhà vua chính là một SỨ THẦN TOÀN HẢO NHẤT.
Saint-Denis, Reunion
Vua Duy Tân năm 1930 Với những hiểu biết sâu rộng, Ngài đã sáng tạo một đài vô tuyến để bắt được những làn sóng cực mạnh. Từ đó, Ngài biết được những tin tức sôi động khắp nơi, nhất là về một nước Pháp đang phải tranh đấu cho tự do của chính họ. Những tin tức kháng chiến được Ngài loan tới những người thân cận để họ biến thành những làn sóng di động, âm thầm truyền tới chính phủ Pháp Tự Do. Sự tiếp tay kỳ diệu của Ngài qua không gian là những vũ khí quý giá mà sau này Ngài đã nhận được huy chương kháng chiến do chính phủ Pháp Tự Do ban tặng. Thời cơ đã đến khi Ngài nghe được lời kêu gọi lịch sử của tướng De Gaulle. Ngài đã nhìn thấy con đường danh dự để trở về quê hương. Đó là, chính Ngài phải tình nguyện gia nhập lực lượng kháng chiến cho một nước Pháp Tự Do để từ đó, nhân danh cựu Hoàng Đế của một xứ bị Pháp đô hộ, Ngài sẽ yêu cầu trả lại tự do cho xứ sở. Ngài tin tưởng rằng người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông-Pháp nên họ có thể chấp nhận cho Việt Nam thành một quốc gia tự trị trong Liên-Hiệp-Pháp.
Tấm ảnh cuối cùng của vua Duy Tân mặc quân phục đeo hàm thiếu tá trong Quân đội Giải Phóng Pháp La France Libre Sự suy luận bén nhạy của Ngài thật tuyệt vời! Sau nhiều giai đoạn hy sinh theo kế hoạch, Ngài đã được chính phủ Pháp thu xếp để hồi hương với sứ mạng mang thông điệp về một nước Việt Nam Tự Do, Độc Lập trong Liên-Hiệp-Pháp. Hỡi ơi! Sứ mạng thiêng liêng danh dự đó đã đi liền với định mạng bi thảm của vị vua dũng cảm, phi thường! Chuyến bay từ Fort-Lamy đi Bangui ngày 26 tháng 12 năm 1945 đã lâm nạn và bốc cháy gần làng Bossako! Chuyến bay đó trên đường mang vua Duy Tân ghé đảo Réunion thăm lại thân nhân, bè bạn trước khi Ngài trở về cố hương! Chuyến bay đó đã không bao giờ tới đảo Réunion, nơi hàng ngàn dân chúng hân hoan đứng đợi người bạn Việt Nam mà họ hằng ngưỡng mộ và yêu mến! Chuyến bay đó đã dập tắt bao hy vọng vừa bừng lên trong trái tim muôn người Việt Nam về viễn ảnh một nước Việt Nam Tự Do, Độc Lập! Chuyến bay đó đã thay đổi giòng lịch sử của hai quốc gia Việt-Pháp khi người ta tự hỏi, số phận Đông Dương sẽ thế nào nếu vua Duy Tân – vị Hoàng Đế sáng suốt, yêu nước thương dân – với sự ủng hộ của chính phủ một nước Pháp Tự Do, sẽ cầm vận mệnh quốc gia Việt Nam năm 1946?!
Bài báo trên tờ L’actualité Réunionnaise kể lại chuyến đi cuối cùng về đảo Reunion của vua Duy Tân và những mong muốn chưa thực hiện được của nhà vua
Tấm bảng ở chân Tượng Đài Tưởng Niệm Vua Duy Tân: Để tưởng nhớ hai vị hoàng đế Annam (Vietnam) bị đầy đến đảo Réunion ngày 20 tháng 11-1916 vì nổi dậy chống lại nhà cầm quyền thuộc địa Pháp. Hoàng đế Thành Thái-Thái tử Nguyễn Phúc Bửu Lân (1870-1954). Hoàng đế Duy Tân-Thái tử Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900-1945) (ảnh của tác giả). Nhưng vua Duy Tân đã ra đi….. Vị Hoàng Tử Vĩnh San nhỏ bé tám tuổi lên ngôi. Vị Hoàng đế mười bẩy tuổi, đi chân đất ra khỏi hoàng cung, làm cách mạng. Vị vua tuổi đôi mươi bị truất phế lưu đầy. Người bạn da vàng thân thiết của thổ dân Châu Phi. Người chiến sỹ kiên trì tiếp tay đắc lực cho kháng chiến quân Pháp…… Ngài đã ra đi trên cánh đồng thênh thang nắng gió! Xin mượn lời của người dân hải đảo Réunion thương khóc Ngài trong ngày định mệnh đó, như nén tâm hương thắp lên trong ngày giỗ Đấng Minh Quân tôn kính: “Ôi, Hoàng Tử Vĩnh-San tuyệt diệu! Làm sao Ngài có thể ra đi đột ngột và bi thảm như thế được? Từ nay, nếu có người Việt Nam hiếm hoi nào ghé qua đảo này, họ sẽ không còn dịp quỳ gối kính cẩn trước Ngài nữa. Nhưng những người Pháp ở đây đã biết và yêu mến Ngài, sẽ nghiêng mình sùng kính mỗi khi tưởng nhớ đến Ngài. Bằng tinh thần cao thượng, Ngài đã chịu đựng một cuộc thử thách quá lớn lao. Điều đó sẽ đem đến cho hương hồn Ngài một hào quang sáng chói vĩnh cửu, sáng chói hơn cả cái vương miện mà Ngài đã đội trong thời gian ngắn ngủi”(*) Huệ Trân (Độc Cư Am – Tiết lạnh cuối năm) Tài liệu tham khảo: (*)“Hồ sơ vua Duy Tân” của học giả Hoàng trọng Thược. Bài đọc thêm: Đảo Réunion, Dấu Chân Lưu Đầy Hai Vị Vua Việt. (BS. Nguyễn Xuân Quang) Vua Duy Tân những ngày cuối cùng ở Paris (Tuyêt Trần) https://thuvienhoasen.org/a37024/vua-duy-tan-nhung-ngay-cuoi-cung-o-paris Nhân ngày tưởng niệm vua Duy Tân tử nạn trong chuyến bay từ Paris về đảo Reunion 26 tháng 12 năm 1945, vị vua trẻ Việt Nam đã anh dũng tranh đấu cho đất nước thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp; Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của bà Tuyết Trần, bạn của bà Suzy Vinh San, trưởng nữ của vua Duy Tân. VUA DUY TÂN NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG Ở PARIS Tuyết Trần Paris, tháng 12 - 1945, mùa Giáng sinh. Bầu trời mùa đông ảm đạm, mãi đến 8 - 9 giờ ánh sáng ban ngày mới chịu ló ra khỏi màn đêm dày đặc và mới 4 giờ chiều trời đã nhập nhoạng, đêm hiện lên một màu xanh thẫm. Nhiệt độ tháng 12 có ngày xuống âm 3 độ C, tuyết rơi trắng xóa, vùng quê có cả băng giá. Ánh đèn điện vàng vọt hắt hiu, tù mù, làm cho mùa đông dài lê thê, tưởng chừng như vô tận. Không khí lạnh tràn khắp không gian, cái lạnh ẩm ướt, khó chịu càng khiến con người cảm thấy tê tái thêm. Đến cái giường cũng ẩm, chăn gối đều lạnh ngắt. Nhiều người phải cho cục gạch đất nung vào lò sưởi cả ngày, để trước khi đi ngủ bọc trong giấy báo, đặt dưới lớp chăn làm ấm giường. Người khá giả hơn thì sử dụng loại chảo có nắp đậy và cán dài, bỏ than tro vào đó sưởi ấm chăn gối. Ít ai có được phòng ngủ sưởi ấm bằng than củi và hầu hết thường thiếp đi trong cơn lạnh giá của mùa đông. Paris mùa đông thứ hai sau ngày giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Đức quốc xã vào tháng 8 - 1944 còn thiếu thốn về nhiều mặt, thực phẩm và chất đốt để sưởi ấm, người dân phải về quê tìm mua gà, vịt... Ấy vậy mà những phụ nữ Pháp vẫn tất bật lo bữa tiệc Giáng sinh cho người thân theo truyền thống được tươm tất, trọn vẹn. Mãi đến ngày 5-5-1945, lệnh của tướng De Gaulle mới được truyền đến đảo Réunion, cho phép hoàng tử Vĩnh San (tên người Pháp gọi vua Duy Tân) lần đầu tiên kể từ khi bị đày ra đây vào năm 16 tuổi (1916), sau 29 năm mới được đặt chân đến Paris. Lênh đênh hơn 1 tháng, từ đảo Réunion trên Ấn Độ Dương, tháng 6 -1945 vua Duy Tân được con rể của tướng De Gaulle là tướng Alain de Boissieu tiếp đón tại Paris. Nhà vua có cơ hội trao đổi với tướng De Boissieu về quan điểm chính trị của mình. Vua Duy Tân muốn thống nhất cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam, giành lại độc lập và hợp tác chặt chẽ với Pháp. Cũng theo tướng De Boissieu, vua Duy Tân đã phê phán, chỉ trích “rue Odinot” (Bộ thuộc địa Pháp) còn mải mê trong đường lối chính trị cố hữu của mình với những từ ngữ “thuộc địa”, “đế quốc”, “chủ quyền nước Pháp” hay “cai trị trực tiếp”, mà không hề muốn đề cập đến các khái niệm “độc lập”, “tinh thần quốc gia”. Nhà vua cho rằng “rue Odinot” chối bỏ sự hiện hữu của một quốc gia và Tổ quốc Việt Nam, mà theo ông “đó là điều đáng lo ngại”. Tướng De Boissieu cho vua Duy Tân biết rằng, những điều ấy đã được Bộ thuộc địa Pháp công bố trước khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, đến giờ thì tình hình đã thay đổi, có hy vọng thương lượng lại. Ngày 20-7-1945, vua Duy Tân được gởi sang Đức và đến cuối tháng 10-1945 lại có lệnh gọi ông trở về Paris. Trong khi đó, ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9-9-1945, quân Tưởng Giới Thạch tràn vào miền Bắc để giải giới quân Nhật. Cũng khi ấy, tướng Leclerc theo chân quân Anh và Ấn trở lại Đông Dương, vào lại Sài Gòn ngày 12-9-1945. Tình hình rối như mớ bòng bong, sự kiện tiếp nối sự kiện, mà khi ấy tướng De Gaulle vẫn lúng túng khi cố tìm kiếm một giải pháp có thể thực thi cho Đông Dương, trong khi các thế lực thuộc địa cũ còn mạnh mà “quân bài” Bảo Đại đã mất hiệu nghiệm, không được lòng dân. Pháp “vướng” vì hai chữ “độc lập” của Việt Nam và sau này Mỹ cũng thế! Vua Duy Tân vừa trở về sau chuyến công vụ tại Đức, nhưng phòng trọ của ông không được sưởi ấm, cái lạnh thấm qua da thịt buốt thấu xương nên khó dỗ giấc ngủ. Trong khi chốn đi đày của nhà vua lại là nơi quanh năm ấm áp. Ở Paris, nhà vua cảm thấy cô đơn, lạ lẫm, khác hẳn bầu không khí cởi mở, thân thiện trong gia đình và bạn bè bên đảo. Không khí lạnh giá, căn nhà trọ một mình vắng vẻ càng làm tăng thêm cảm giác cô đơn nơi ông. Bài báo trên tờ L’actualité Réunionnaise kể lại chuyến đi cuối cùng về đảo Reunion của vua Duy Tân và những mong muốn chưa thực hiện được của nhà vua Vua Duy Tân phải chờ đợi tại Paris đến ngày 14-12-1945 thì cuộc gặp gỡ lịch sử duy nhất giữa tướng De Gaulle và nhà vua mới diễn ra, nội dung được giữ bí mật. Tuy nhiên, có người cho rằng vì sự bất cẩn của chính vua Duy Tân và do quá vui mừng trước khả năng được về lại Việt Nam mà ông đã để lộ ra tin tức. Nhà vua đã liên lạc với một số nhân vật Việt Nam có tên tuổi tại Paris với mục đích thành lập nội các tạm thời để ra mắt quốc dân khi trở về, nhưng ông đã thất vọng vì không tìm được sự giúp đỡ và ủng hộ nào như mong đợi. Sau này, tướng De Boissieu hoàn toàn đồng ý với ông Eugène-Pierre Thebault khi ông viết về cuộc gặp gỡ này như sau: “Đối với vua Duy Tân cũng như tướng De Gaulle, thời gian không còn nhiều để cho những tranh luận ngoài đề và sự mặc cả. De Gaulle muốn tự mình thẩm định con người mà trong vòng thân cận đều giới thiệu với ông là có khả năng giải quyết vấn đề khó khăn ở Đông Dương, trong khi vua Duy Tân lại muốn quay lại ngôi vị mà nhà vua không hề từ bỏ”. Thebault là người bạn trung thành của vua Duy Tân và cựu Giám đốc văn phòng của Thống đốc Capagory ở đảo La Réunion ấy cũng có mặt tại Paris để gặp vua Duy Tân lần cuối cùng vào ngày 17-12-1945. Tâm sự trĩu nặng khi 5 đứa con bỏ lại trên đảo, đứa bé nhất vua mới được biết cách đó vài hôm, là một bé gái, sinh ở Saint-Denis ngày 1-12-1945, đặt tên là Marie Gisèle Andrée... Những ngày cuối năm ở Paris là khoảng thời gian đầy nhung nhớ, hy vọng và lo âu cho tương lai của vua Duy Tân. Trong hai lá thư viết từ Paris gửi cho con gái đầu - bà Suzy Vĩnh San, vua Duy Tân dặn dò con phải bảo bọc các em, sống phải lương thiện, không dối trá... “Cha viết cho con mà không biết lá thư này có đến tay con hay không. Người cha khốn khổ của con luôn nhớ đến con trong nỗi bất hạnh, vì không có công lý và do sự ác độc của con người... Khi con còn nhỏ, người ta nói dối vì muốn giấu giếm điều gì đó. Đến lúc lớn hơn, người ta bỏ tù người khác để che giấu sự thật. Vì vậy, con gái của cha, không bao giờ được nói dối, bởi vì từ việc nói dối nhỏ bé thời thơ ấu sẽ trở thành sự độc ác sau này... Và phải biết tha thứ, bởi vì không biết tha thứ thì con người sẽ thèm khát trả thù và trong sự trả thù ấy, con người luôn luôn bất công, vô lý... Con gái yêu quí của cha, chính từ văn phòng của cha ở đại lộ Champs Elysees, cha đã viết thư này cho con. Ngoài trời thì băng giá và ở đây thì lạnh tương tự, vì không nơi nào được sưởi ấm... Với hai tay lạnh cóng, cha viết cho con. Mới có 5 giờ chiều mà phải bật đèn để nhìn cho rõ, vì màn đêm buông xuống lúc 3 giờ chiều... Con biết không, con gái của cha, cha đã phải hy sinh rất nhiều để mua quà cho các con. Cha viết tiếp lá thư dở dang vì quá lạnh, không viết nổi...”. Lá thư cuối cùng trong tuồng chữ viết vội của vua Duy Tân viết cho con gái đề ngày 28-11-1945. Sau đó, một người dáng nhỏ bé, gầy gò, co ro, vội vã lên chiếc máy bay của Hãng hàng không Air France cất cánh tại phi trường Le Bourget ngay trong đêm Giáng sinh 24-12-1945, hy vọng vượt chặng đường dài để về thăm gia đình, bạn hữu và nhìn mặt đứa con gái mới chào đời. Hành lý mang theo chỉ là những món quà Giáng sinh nho nhỏ, ít tốn kém và gọn nhẹ cho việc di chuyển bằng máy bay. Xa gia đình và các con mới chỉ có 7 tháng mà nhà vua đã thấy dài đằng đẵng, nhớ nhung khôn xiết, nhất là người vợ mang thai khi vua ra đi. Đảo La Réunion nơi vua muốn trở về cách Paris 9.400 cây số đường chim bay. Đêm Giáng sinh tại Pháp là thời khắc sum họp gia đình, mấy ai lại di chuyển đường dài, vì thế chuyến bay định mệnh ấy, với 21 chỗ ngồi, chỉ có 5 hành khách và 3 nhân viên phi hành đoàn: ông Guy Porte - phi công, ông Lucien Coulomb - phụ trách truyền thanh và ông Louis Rebout - kỹ sư phi hành. Chiếc máy bay đã rơi xuống một khu rừng rậm thuộc Bassako, nước Cộng hòa Trung Phi ngày 26 -12 -1945, tất cả mọi người trên máy bay đều tử nạn, trong đó có vua Duy Tân. Tướng De Gaulle rời khỏi chính quyền ngày 20-1-1946, chưa đầy 1 tháng sau cái chết của vua Duy Tân. Trưởng nữ của Vua Duy Tân: Công chúa Suzy Vĩnh San là một trong số ít ỏi công chúa triều Nguyễn còn sống, và là trưởng nữ của vua Duy Tân. Cuộc đời của bà, dù muốn dù không, mang dấu ấn của vua Duy Tân. Tuyết Trần (Paris 2017) Xem thêm: Bước Chân Đại Sỹ (Huệ Trân) Đảo Réunion, Dấu Chân Lưu Đầy Hai Vị Vua Việt. (Ký sự của BS. Nguyễn Xuân Quang) https://thuvienhoasen.org/a37023/dao-reunion-dau-chan-luu-day-hai-vi-vua-viet- ĐẢO RÉUNION, DẤU CHÂN LƯU ĐẦY HAI VỊ VUA VIỆT Bút ký của BS. Nguyễn Xuân Quang. Đảo Réunion là một trong những nơi chính chúng tôi muốn viếng thăm trong chuyến du hành qua các đảo vùng Ấn Độ Dương nằm sát cạnh châu Phi như Seychelles, Madagascar, Mauritus vì đảo đã từng có dấu chân lưu đầy của hai vị vua Việt Nam là Thành Thái và Duy Tân. Tổng Quát. Đảo Réunion là một đảo nhỏ được xem là đảo ‘Lost in the Idian Ocean’ (‘Mất hút trong Ấn Độ Dương’) đúng với mục đích của chính quyền Pháp dùng làm nơi lưu đầy cho hai vị vua Việt Nam. Réunion hay chính thức gọi là La Réunion; trước đây là Île Bourbon. Đảo cách Madagascar 700 km về phía đông và cách Mauritus 200 km về phía tây nam. Réunion có chiều dài là 63 km, rộng 45 km và diện tích khoảng 2.517 km², hiện là một Vùng Đất Hải Ngoại của Pháp. Những người dân sống ở đây tự gọi mình là Réunionnais hay Créoles. Thủ đô là Saint Denis. Năm 1513: người Bồ Đào Nha khám phá ra và gọi tên là đảo Santa Apollonia. Năm 1793 gọi là Réunion. Gần đây thế giới biết nhiều tới đảo Réunion qua tin ngày 29/7/2015, một số mảnh vỡ đã được tìm thấy tại bờ biển đảo Réunion mà tin rằng là của chiếc máy bay 370 của Hãng Hàng Không Mã Lai Malaysia Airline bị mất tích. Sự kiện này xác thực sự di dân của các người từ Mã Lai Nam Dương vào hàng ngàn năm trước đây tới các đảo ở vùng Ấn Độ dương này được là nhờ các con thuyền chở họ được ‘thuận buồm xui gió’ theo dòng nước, gió mùa giống như các mảnh máy bay trôi dạt tới đây ngày nay. Dấu Chân Vua Việt Lưu Đầy. Réunion là nơi hai vị Vua Việt Nam Thành Thái và Duy Tân bị đưa đi đày vào tháng 11 năm 1916. Vua Duy Tân đã bước chân lên đảo ngay tại bến cảng vào buổi sáng mà hôm nay tầu tuần du biển của chúng tôi cũng cập bến vào buổi sáng. Chúng tôi bước chân lên đảo đi tìm dấu chân của Vua Duy Tân.
vua Thành Thái (ảnh: Wikipedia) Vua Thành Thái (1879-1954) tên mẹ đẻ là Nguyễn Phúc Bửu Lân, vị vua thứ 10 của triều đại Nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Vì chống Pháp ông bị ép thoái vị và bị quản thúc ở Vũng Tầu (12-9-1907) rồi tới năm 1916 bị đưa đi đầy cùng con là Vua Duy Tân tới Đảo Réunion này. Ông cùng gia đình thuê một căn nhà ở thành phố Saint Denis tại đảo Réunion. Đầu tháng 5 năm 1945 (sau khi vua Duy Tân mất), nhờ sự vận động của con gái và con rể của ông và vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường, cựu hoàng Thành Thái được cho về Việt Nam. Ông cùng gia đình sống ở Villa Anna tại Cap Saint Jacques (Vũng Tầu). Ông mất ngày 20-3-1954 tại Sài Gòn và được an táng tại thành An Lăng (lăng Dục Đức) tại xã An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thọ 75 tuổi. Vua Duy Tân. Vua Duy Tân sinh ngày 19 tháng 9-1900 chết ngày 26 tháng 12-1945 nhũ danh là Nguyễn Phúc Vĩnh San, vị vua thứ 11 của Nhà Nguyễn. Khi vua cha bị ép thoái vị, Khâm sứ Pháp Fernand Ernest Lévecque vào hoàng cung chọn người kế vị. Lúc điểm danh các con của vua Thành Thái thì thiếu mặt thái tử Vĩnh San. Ông đang ở dưới gầm giường khi bị lôi ra mặt mày lem luốc. Bị tra hỏi thì thái tử Vĩnh San nói “Ta đang tìm con dế vừa mới xổng“. Vị Khâm Sứ thấy Vĩnh San chỉ mới có 7 tuổi, nhút nhát, thơ dại nên dễ uốn nắn và kiểm soát hơn là chọn những người anh lớn do đó chọn Vĩnh San đưa lên làm vua. Triều đình lấy tên hiệu cho vua là Duy Tân, có ý muốn vua tiếp nối con đường duy tân không thành của vua cha Thành Thái. Vua Duy Tân lúc đăng quang làm vua Vị Khâm Sứ Pháp đã lầm, Vua Duy Tân có thái độ chống Pháp còn quyết liệt hơn. Năm 1916, nhân lúc có Thế Chiến thứ I ở Âu Châu vua lúc đó mới mười sáu tuổi, bí mật liên lạc với các lãnh tụ Thái Phiên, Trần Cao Vân của Việt Nam Quang Phục Hội dự định nổi dậy chống Pháp. Chuyện khởi nghĩa bị bại lộ. Vua cùng các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội chậy trốn và bị bắt. Trần Cao Vân nhận hết tội để cứu vua. Trần Cao Vân và Thái Phiên bị xử tử còn vua Duy Tân bị đưa đi lưu đầy ở đảo Réunion. Ngày 3 tháng 11 năm 1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở Vũng Tầu. Đến ngày 20 tháng 11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại của một người dân ở thành phố Saint-Denis. Vua Duy Tân sống giản dị như những người dân bản xứ. Về sau Vua Duy Tân bất bình với vua cha vì không hợp tính tình, ông ra ở riêng. Thái tử Nguyễn Phúc Vĩnh San, c hụp ảnh tại nhà ở St-Denis Ông học vô tuyến điện và mở tiệm Radio-Laboratoire bán và sửa chữa máy thu thanh. Đồng thời, ông học tú tài ở trường trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học. Ông yêu nhạc, cưỡi ngựa giỏi và viết nhiều thơ văn đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm 1924. Vua Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm (Franc-Macon) và Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Quyền Công Dân Địa Phương (nguồn: Wikipedia). Ông chống chính quyền Vichy theo Đức Quốc Xã. Đã nhiều lần ông xin về trú ngụ ở Pháp nhưng đều bị từ chối. Khi Thế Chiến Thứ II bùng nổ, ông xem De Gaulle, người lãnh đạo Lực Lượng Kháng Chiến Tự Do Pháp (Forces Françaises Libres) ở hải ngoại được thành lập ở Anh là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình (ông hy vọng “nước Pháp Tự Do” và nước Pháp thực dân mà ông chống đối không còn giống nhau). Để tìm một con đường về giúp nước của mình, ông đáp ứng lời kêu gọi giải phóng nước Pháp của De Gaulle. Ông đã thu thập tin tức trong vùng của quân đội Đức qua vô tuyến điện rồi chuyển cho Lực Lượng Kháng Chiến Tự Do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo Chính Phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Thiếu tá Vĩnh San Sau đó, ông được phục vụ trong Lực Lượng Tự Do Pháp với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến. Rồi chuyển qua ngành khác và được thăng chức lên tới thiếu tá. Ngày 14 tháng 12 năm 1945, Charles de Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi: “…Tôi tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và cùng ông xét xem chúng tôi làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam.” Một bạn thân của Duy Tân là E. F. Thébault kể lại trong bài Destin tragique d’un Empereur d’Annam: Vĩnh San-Duy Tân: “Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp, có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở khách sạn Louvres, trước hý viện Pháp. Ngài nói: “Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu tháng 3 (1946).”Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ nữa” (nguồn: Wikipedia). Vua Duy Tân quyết định giành độc lập cho Việt Nam bằng con đường ôn hòa không đổ máu và vẫn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp để Việt Nam được che chở. Ông thừa nhận lối chống Pháp lúc còn trẻ của mình là “nóng nảy vụng về”. Trong hồi ký Bên giòng lịch sử 1940-1965, linh mục Cao Văn Luận ghi lại rằng mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông có tiếp xúc ba lần với cựu hoàng Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích: “Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp. Điều đó không trái với quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì hơn trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại”. Vua Duy Tân đã từng tâm sự: “Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tin rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa chia rẽ”. Tuy nhiên, có khuynh hướng cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch tái chiếm Đông Dương của Pháp (nguồn: wikipedia). Ngày 24 tháng 12 năm 1945, cựu hoàng Duy Tân dùng phi cơ Lockheed C-60 của Pháp bay từ Paris trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Máy bay bị nạn ở Cộng Hòa Trung Phi khiến ông thiệt mạng. Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát do người Anh hay một bàn tay nào khác âm mưu. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong Destin tragique d’un Empereur d’Annam, E.P Thébault viết: “Ngày 17 tháng 12 năm 1945, mười hôm trước khi tử nạn, Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe doạ”. Lần chót khi cả hai đi ngang vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay Thébault nói: “Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy”. Pháp cho mở hai cuộc điều tra và kết luận không có dấu hiệu đây là một cuộc mưu sát, nhưng đến nay vụ tai nạn máy bay vẫn còn là nghi án lịch sử chưa có lời giải đáp. Do sự đóng góp của ông trong thời chiến, sau khi chết, chính phủ Pháp trao tặng ông huy chương Grand Cross of the Legion of Honour và Officer’s Medaille de la Resistance và cũng bầu chọn ông là một Companion of the Orde de la Libération. Vua Duy Tân năm 1930 Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được gia đình đưa từ M’Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An Lăng, Huế cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987. Ông được tưởng nhớ nhiều. Ở Saigon trước năm 1975, đường Garcerie cũ thời Pháp thuộc được đổi tên là đường Duy Tân. Đây là con đường với hai hàng cây lớn, chạy ngang Trường Đại Học Luật Khoa và Kiến Trúc nơi có Viện Đại Học Saigon nổi tiếng là thơ mộng, đã được nhắc trong bản nhạc “Trả Lại Em Yêu” của Phạm Duy: “Con đường Duy Tân cây dài bóng mát, uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…’. Sau năm 1975, đường Duy Tân bị đổi tên thành đường Phạm Ngọc Thạch. Ngày 5 tháng 12 năm 1992 tại thủ đô Saint Denis đảo Réunion khánh thành đại lộ mang tên ông: Đại lộ Thái tử Vĩnh San. Chúng tôi đã dự tính đi tìm các dấu chân của cựu hoàng Duy Tân, trước khi lên đường tới thăm đảo Réunion đã liên lạc với một người đàn anh khả kính có cô con gái tên là Titi (không biết có phải lấy theo tên dân dã Việt Nam là Tí Ti không?) sống ở đây để nhờ hướng dẫn. Vì Titi bận đi làm nên chúng tôi hẹn gặp Titi vào buổi chiều sau khi đi làm về. Buổi sáng chúng tôi dành thì giờ đi thăm các địa điểm lịch sử đặc biệt và các danh lam thắng cảnh khác (sẽ viết trong bài Réunion Mươi Điều). Chúng tôi hẹn gặp tại tiệm ăn nổi tiếng Le Roland Garros ở đây. Tới đây mới biết Titi sống ở tận phía Nam của đảo không phải ở ngay thủ đô Saint Denis. Giờ tan sở ở đây kẹt xe như ở Los Angeles vì chỉ có một xa lộ vòng quanh đảo sát biển và vách núi ít có đường rẽ ngang nên không thể thoát ra được xa lộ. Chờ mãi tới hơn 7 giờ tối mà Titi hãy còn đậu xe trên xa lộ ở phía Nam của đảo. Nhiều lần tính bỏ cuộc nhưng may là taxi ở đây cũng bị kẹt. Mấy khách du dịch cùng đi trên con tầu của chúng tôi gọi taxi về tầu chờ đã gần hai tiếng rồi mà vẫn chưa thấy bóng dáng xe taxi đâu. Cũng may là đêm nay tầu ngủ qua đêm ở đảo này nên không sợ nhỡ tầu. Titi rất thông minh biết là chúng tôi đang lo nên đã điện thoại nhờ cô bạn nha sĩ người Pháp làm tại Saint Denis đến gặp chúng tôi để trấn an. Hơn tám giờ Titi mới tới. Chúng tôi quyết định đi ăn tối trước rồi mới đi thăm các nơi vinh danh Thái Tử Vĩnh San ở đây. Vì ăn mãi đồ ăn Tây phương trên tầu đã chán ứ tới cổ, thèm món ăn Việt Nam nên dự định tới một tiệm ăn Việt Nam nổi tiếng nhất ở đây là tiệm Kim Sơn. Rủi thay nhà hàng đóng cửa hôm nay. Cuối cùng chúng tôi quyết định tới tiệm ăn Nhật Shabu Shabu. Khi vào tiệm mới biết chủ là người Đại Hàn. Cũng đành bằng lòng vậy. Ăn thêm món ăn thịt nướng Đại Hàn cũng còn hơn là đồ ăn trên tầu nhiều. Tiệm ăn quá đông, hầu ăn chậm kiểu hải đảo nhiệt đới, ăn xong gần nửa đêm. Chúng tôi lên đường trực chỉ ngay tới Tượng Đài Tưởng Niệm Vua Thành Thái và Duy Tân nằm trên Đại lộ Thái Tử Vĩnh San. Tượng đài nằm ở một công viên cây cao bóng cả với những cây kè hoàng gia cao rất đẹp. Tấm bảng ở chân Tượng Đài Tưởng Niệm Vua Duy Tân: Để tưởng nhớ hai vị hoàng đế Annam (Vietnam) bị đầy đến đảo Réunion ngày 20 tháng 11-1916 vì nổi dậy chống lại nhà cầm quyền thuộc địa Pháp. Hoàng đế Thành Thái-Thái tử Nguyễn Phúc Bửu Lân (1870-1954). Hoàng đế Duy Tân-Thái tử Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900-1945) (ảnh của tác giả). Bản đồ cho thấy Đại lộ Thái tử Vĩnh San (N6) là trục lộ chính từ xa lộ ven biển đổ vào vùng sau Saint Denis. Đại lộ Thái Tử Vĩnh San là một trong những con lộ chính nối thủ đô Saint Denis với xa lộ vòng quanh đảo. Thấy chúng tôi đi thăm tượng đài và cây cầu Thái tử Vĩnh San vào lúc đêm khuya vắng không một bóng người, một vài bóng xe đêm chạy qua cầu bấm còi, không rõ là họ châm chọc hay chia xẻ cảm tình. Có lẽ chúng tôi là hai người Việt hiếm hoi nhất tới thăm Tượng Đài và đi bộ ở cầu vào lúc nửa đêm như thế này. Dĩ nhiên không có Titi và cô bạn, chúng tôi đâu dám mạo hiểm. Đây quả thật là một cơ duyên hiếm có với hai vị cựu hoàng Việt Nam. Thành cầu bây giờ rào kín lại để phòng ngừa tự tử. Cầu Vĩnh San nổi tiếng ở dân địa phương là ‘Cầu Tự Tử’. Nếu hỏi thăm cây Cầu Tự Tử ở đâu thì dân địa phương biết ngay còn hỏi Cầu Thái Tử Vĩnh San hay Vua Duy Tân thì ít ai biết. Trở lại công viên tượng đài, chúng tôi ngồi lắng nghe tiếng dế kêu than trong đêm vắng. Chợt nhớ tới Thái tử Vĩnh San lên ngôi vua là nhờ con dế xổ lồng thuở nhỏ. Như đã nói ở trên thái tử chui vào gầm giường tìm con dế nên vắng mặt lúc viên toàn quyền Pháp điểm danh chọn người lên kế vị vua Thành Thái. Viên toàn quyền thấy ông mặt mày lấm lem, hồn nhiên, trẻ thơ, coi con dế hơn ngai vàng và cho rằng ông là đứa trẻ khờ khạo, đần độn dễ sai bảo, uốn nắn nên đã chọn ông. Tiếng dế đêm nay ở đây nghe thật bi thương. Không biết có những đêm thanh vắng nào hồn ông về đây nhập vào tượng mình nghe tiếng dế kêu than van cho mệnh nước Việt Nam. Trong một thoáng tôi nhặt được mấy câu thơ: Ngày xưa còn bé chui gầm giường, Tìm con dế bạn thành quân vương. Lưu đầy vì nước giờ thành tượng, Đêm đêm nghe dế khóc quê hương. Sau đó Titi bao chúng tôi một chầu Saint Denis By Night. Nửa đêm về sáng chúng tôi mới trở về bến cảng cách hơn chục cây số. Bến cảng rộng mênh mông không biết cửa nào vào được tới tầu. Chạy loanh quanh mãi, may mắn gặp một nhân viên làm đêm thấy chúng tôi đi lạc đã đến tiếp cứu dẫn chúng tôi vào cổng dành cho du khách ra vào. Thật cám ơn Titi vì sáng mai lại phải dậy sớm đi làm. Vào tới phòng kiểm soát bến cảng vẫn còn thấy đông người ngồi truy cập vào internet. Các nhân viên Á châu làm trên tầu bây giờ mới làm hết việc ra đây truy cập internet liên lạc về gia đình. Chúng tôi cũng không cầm lòng được ngồi gởi ngay những tấm ảnh hôm nay về nhà mặc dầu mắt đã rũ xuống buồn ngủ. Sáng hôm sau chúng tôi dành thì giờ cả buổi sáng đi tìm chỗ làm việc và Hình ngôi nhà cũ, chụp ngày xưa. Buổi trưa ghé ăn trưa ở một nhà hàng ăn Việt Nam nổi tiếng nhất ở đây: Tiệm Ăn Kim Sơn mà hôm qua chúng tôi muốn mời Titi ăn tối nhưng nhà hàng đóng cửa. Bà chủ tiệm là một người Việt ở Pháp. Bà qua đây mở tiệm ăn đã hơn mười năm. Gặp người cùng quê hương bà rất ân cần tiếp đón và dành nhiều cảm tình đặc biệt mặc dù rất bận rộn. Thực đơn có nhiều món Việt và Việt lai Pháp. Tôi có thói quen tìm ăn phở ở khắp nơi trên trái đất này. Phở ở đây nấu theo Phở Bắc gốc Hà Nội. Thịt bò dần cho mềm rồi xào lăn qua một chút. Phở Tái Lăn (Phở Thịt Tái Xào Lăn). Thịt bò Việt Nam ‘lao động vinh quang’ rất dai nhất là đối với giới ‘răng giả’, không mềm như thịt bò Wagyu Nhật Bản (Wa- là Hoa tên cổ chỉ người Nhật- gyu ruột thịt với Phạn ngữ go- là bò, trâu, Anh ngữ cow bò), thịt bò nuôi cỏ Úc và bò Black Angus Hoa Kỳ. Vì thế phải dần cho mềm. Phở không ăn kèm với giá, rau thơm. Phở làm gợi nhớ tới Phở Thìn Hà Nội. Dĩ nhiên ở đây thiếu cái phong thái bình dân đến độ mất vệ sinh không dám ăn của các quán ăn đại chúng nổi tiếng ở Hà Nội. Ăn xong chúng tôi ghé Chợ Trung Ương ở ngay bên kia đường. Chợ có đầy đủ các thứ cho du khách mua làm quà kỷ niệm. Tuy nhiên giá sinh hoạt ở đây rất đắt đỏ so với các đảo lân cận nhất là so với Madagascar vì mọi thứ ở đây hầu như đều phải mang từ Pháp qua. Các cửa hàng ở đường phố cũng thấy có bán hàng mỹ nghệ Việt Nam. Sau đó chúng tôi đi tìm tới một thư viện mà người bạn cho biết nơi này có nhiều tài liệu về Vua Duy Tân. Rất tiếc không rõ tên và địa chỉ. Chúng tôi có ghé phòng thông tin hỏi thăm. Họ giới thiệu tới một thư viện ở ngay đường phố chính. Ghé đến nhưng không có tài liệu nào về Vua Duy Tân. Thật thất vọng. Không còn thì giờ, đành phải về lại tầu. Dĩ nhiên Đảo Réunion cũng có nhiều danh lam thắng cảnh, một địa điểm du lịch và tĩnh dưỡng yêu chuộng của người Pháp và khối nói tiếng Pháp ở Ấn Độ Dương. Đón xem bài viết Réunion Mươi Điều. Vua Duy Tân và Thành Thái đều có tên trên Đài Tưởng Niệm ở đây nhưng Vua Duy Tân được vinh danh nhiều hơn qua tên Đại Lộ và Cầu Thái tử Vĩnh San bởi vì sau này cựu hoàng Duy Tân là thiếu tá Vĩnh San trong quân đội Tự Do Pháp. Nếu ngài không bị tử nạn phi cơ bất ngờ, giải pháp De Gaules dù cho có mục đích dùng ngài làm lá bài trong ván cờ với Hồ Chí Minh đi nữa thì không biết vận mệnh Việt Nam sẽ như thế nào? Dù gì ngài cũng là một người yêu nước ngay từ thuở thiếu niên, lòng yêu nước ấm ủ cho tới khi chết. Như đã nói ở trên Ngài đã muốn Việt Nam được độc lập theo một giải pháp ôn hòa trong Liên Hiệp Pháp giống như nhiều thuộc địa Pháp khác không cần phải chiến tranh đổ máu, nồi da sáo thịt. Việt Nam phải nương tựa vào Tây phương mới tránh được tai ách bị người Trung Quốc đồng hóa. Tôi tin ngài là ngưởi yêu nước chân chính và có thể giúp Việt Nam tốt đẹp thật sự. Với kinh nghiệm lưu đầy đầy từ năm 16 tuổi, rũ bỏ lối sống phong kiến vương quyền Việt Nam, sống tự lập, với tâm hồn nghệ sĩ, hiệp sĩ (cõi ngựa giỏi), ra nhập Lực Lượng Tự Do Pháp chống lại quân phiệt, độc tài, hiếu chiến, vươn mình vào giới thượng lưu quyền lực Âu châu. Nguyên điểm ngài là hội viên Hội Tam Điểm (ở Hoa Kỳ gọi là Freemasonry) cũng đủ cho thấy ngài là một con người yêu nước, yêu và trọng quyền sống con người thật sự (ngài vốn là hội viện Hội Nhân Quyền địa phương). Hội Freemasonry có gốc từ Anh quốc. Hội là một hội Huynh Đệ, Tương Trợ, Từ Thiện có tôn chỉ là Tự Do, Độc Lập và Thượng Đế chính thống và cũng là một hiệp hội xã hội. Ở Anh hội chống lại chế độ bảo hoàng thối nát. Ở Mỹ hội phát triển chế độ Cộng Hòa của một chính phủ độc lập. Các vị cha già lập quốc Hoa Kỳ phần lớn là hội viên của hội Freemasons, trong đó có Tổng Thống Washington. Hai mươi mốt người ký vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là hội viên Freemasons. Hiến Pháp và Luật Nhân Quyền chủ trương tự do, tự do mậu dịch dựa vào ‘tín ngưỡng dân sự’ (‘civil religion’) của hội. Mười 14 vị tổng thống Hoa Kỳ là hội viên Freemasons… Là một hội viên Freemasons như các vị cha già và tổng thống Hoa Kỳ chắc chắn ngài muốn Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự do, hạnh phúc thật lòng. Ngài sẽ có được sự giúp đỡ, tương trợ của tất cả các hội viên Freemasons đầy quyền lực khác ở khắp nơi trên thế giới… Một tấm lòng yêu nước Việt Nam chân chính không vì danh lợi. ‘Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia’. Và ông đã thấy: ‘Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa chia rẽ”. Âu cũng là vận nước như thế! Hàng triệu người Việt giờ là dân lưu vong. Cả nước Việt giờ là dân mất nước. Nghĩ mà đau đớn thay nhưng bất lực không làm được gì. ‘Vô tài chỉ biết ngậm đau thương’. (Bản gốc: https://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/)