Wednesday, September 24, 2025

Xã Hội Miền Nam Việt Nam Đầu Thế Kỷ Hai Mươi Qua Tiểu Thuyết Của Nhà Văn Hồ Biểu Chánh

Xã hội miền Nam Việt Nam qua các tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh nặng ảnh hưởng văn hóa Hán học, Nho giáo của Tàu từ đơn vị gia đình đến thôn xóm, làng xã..., một cơ cấu tổ chức vận hành xã hội thực dân phong kiến trong đó cấp dưới tuân theo lệnh cấp trên không hề có phản biện, vấn đề tôn ti trật tự rành rẽ, thể hiện qua từng hành vi và ngôn ngữ (như "thưa" "bẩm quan lớn") của các nhân vật. Không hề có công bằng dân chủ. Tiếng nói người dân, nhất là người cùng đinh, cùng các tầng lớp dưới, vô cùng yếu ớt, chủ yếu là phân trần, van xin, lạy lục. Việc mua quan bán tước, bổng và lộc, cậy nhờ kẻ quyền thế, tặng quà cáp cấp trên, còn rất nặng nề, phong kiến, hủ lậu. Hầu như không hề có sự rõ ràng minh bạch về hành chánh nơi các cơ quan công, tệ nhất tại vùng thôn quê. Ở thành phố lớn như Sài gòn, hay các vùng phụ cận và vài thị xã có tầm cỡ như Mỹ tho, Tân an, Cần thơ... luật lệ, nhất là về dân sự, hình sự, có vẻ có chút rõ ràng hơn, nhưng vẫn nặng dấu ấn quyền lực của kể thống trị là thực dân phong kiến. Người thất học, mù chữ (ở đây là quốc ngữ và tiếng Pháp), dù có tiền của, vẫn không khác gì đứa con nít, người khác nói sao thì hay vậy. Nhìn bề ngoài xã hội ấy có vẻ thanh bình, yên ổn, nhưng bên trong đầy bất công, mâu thuẫn tiềm tàng, với những xung đột lợi ích giữa các phe nhóm, giữa giai cấp thống trị và kẻ bị trị. Trong xã hội vẫn có vài chỗ cho những ai có tài chí, cố nỗ lực hết sức để vươn lên theo mẫu mực đạo đức Nho giáo, ngay chính, qua con đường học vấn, biết rành quốc ngữ lẫn tiếng Pháp, rồi sau đó, có thể cả tiếng Anh. Nhìn chung, đại bộ phận cha mẹ đều khuyến khích con cái họ, cả nam lẫn nữ, tìm cách tiến thân, làm giàu bằng cách móc nối với người có quyền và có tiền, bằng con đường hôn nhân hay bằng các thủ đoạn bất chính. Đôi khi họ không ngại lươn lẹo, tính toán, dùng thủ đoạn gian manh để vươn lên nấc thang xã hội, trở nên giàu có, danh tiếng. Thời ấy nhiều người lừa đảo nhau mà sống. Có kẻ giàu có nhưng vô đạo đức, áp bức, tấn công tình dục người nghèo hèn, tá điền, tá thổ hay tôi tớ của họ. Có người giàu hữu học bên cạnh trọc phú không biết chữ. Có người nghèo nhân từ, sẵn sàng san xẻ, giúp người mồ côi, sa cơ, tứ cố vô thân, hoặc trẻ em lưu lạc. Nhưng cũng có những tên trộm cướp tàn bạo, buôn người, bán trẻ, sang đoạt tài sản người khác, hoặc sẵn sàng làm mọi điều bất lương miễn có tiền là được, nhưng lại vỗ ngực lớn tiếng tự cho mình là cải cách xã hội, chấn hưng kinh tế nước nhà. Xã hội ấy có người lao động lam lũ, tay làm hàm nhai, nhưng cũng có kẻ ngồi mát ăn bát vàng, ở không cho thuê phố lầu hay cho người nghèo vay hoặc cầm đồ để bòn rút, lấy lãi, bắt chẹt con nợ mà thủ lợi riêng. Trong xã hội ấy còn có hạng địa chủ giàu sang, nhờ có ruộng vườn đất đai cha ông để lại, và biết khéo tính tóan nên ngày càng giàu thêm. Họ biết chú trọng việc học cho con cái về sau, nên khuyến tấn con cháu đi du học bên Pháp, để về làm thầy thông, thầy ký leo dần lên thành ông phán, ông phủ, ông đốc tờ.... Nhưng hàng con cháu họ, không phải ai ai qua Pháp cũng có chí lập thân, học hành đàng hoàng. Có kẻ chỉ du học rồi lấy vợ đầm và ở luôn bên Pháp. Có kẻ qua Tây học nhảy đầm ăn chơi, rồi về xứ chẳng làm gì được, chỉ mượn vốn nhà vợ giàu để mở casino, vũ trường, nhưng rồi cũng không thành công mà chỉ tán gia bại sản, chuốc bệnh tật và tai hoạ vào thân. Lại có những người sau khi học xong về giúp đất nước, kinh doanh buôn bán gỉỏi hay đi vào chốn quan trường, cộng tác với thực dân, nhưng sau đó lại thất chí, buồn thế sự, nhân tình, nên xoay ra bạo động, hoặc đi tìm người cùng chí hướng, nhưng lại rơi vào bẫy ái tình, dẫn đến đoạn tình vợ con. Đến quá nửa đời người, hay khi về già, họ thức tỉnh, sinh chán ngán, bỏ thế sự, lánh đời đi ẩn tu trên núi. Ngoài ra, trong xã hội ấy còn phải kể nhóm ngoại kiều dựa vào thực dân mà làm giàu trên xương máu dân Việt như các chú chệt, má chín, tài xỉu, chuyên buôn bán lúa gạo, hoặc làm chủ nhà máy xay lúa, chủ nhà cao lầu, trà đình, tửu điếm, casino, hay mua bán địa ốc, cùng những người gốc Ấn độ chuyên cho vay lấy lãi. Có kẻ trong số đó làm ăn phi pháp, biển thủ, hay sang đoạt tài sản người khác, sau phải bỏ trốn sang Tàu, bỏ lại vợ người Việt không hôn thú cùng đám con cái. Bạo lực chính trị cũng được HBC mô tả rõ ràng chi tiết, nhất là thời kỳ Nhật bị Đồng minh giải giáp hồi tháng Tám, 1945, tại Sài gòn. Tình hình biến động ám sát, bắt bớ vô tội vạ hay trấn lột, cướp bóc, hôi của, chiếm nhà chiếm đất, trả thù cá nhân ngay tại thành phố được nhà văn phơi bày tỉ mỉ. Nhờ đó, người đọc cảm nhận được sự cô thế, thiếu hướng dẫn và thiếu thông tin của thường dân, nhất là thanh thiếu niên mới lớn, phụ nữ lâu nay chỉ biết lam lũ làm ăn, từ miền quê ra buôn bán lẻ chốn thị thành. Họ là nạn nhân của thời cuộc, bị các nhóm và các tổ chức chính trị lợi dụng hay trưng dụng không thương tiếc. Xã hội ấy có những cảnh thôn quê êm đềm, trù phú, cảnh dân quê ban đêm đi soi nhái, cảnh chợ búa miệt vườn bán buôn ngày Tết nhộn nhịp, thanh bình, cảnh dân lành sinh sống hiền hòa, làm ăn chơn chất. Nhưng cạnh đó là mặt trái của xã hội thối nát lừa lọc với các vụ tự tử, các án mạng rùng rợn, tạt axít hay đâm chém, thanh toán nhau kinh hoàng, được nhà văn mô tả chi tiết các ý đồ mưu mô mờ ám, ly kỳ và đầy bạo lực như trong các phim nói về mafia của Tây phương.