Your vision will become clear only when you look into your heart.... Who looks outside, dreams. Who looks inside, awakens. Carl Jung
Tuesday, September 16, 2025
Tơ Hồng Vương Vấn, Một Tác Phẩm Giá Trị Của Nhà Văn Hồ Biểu Chánh
Tác phẩm Tơ Hồng Vương Vấn được nhà văn HBC viết tại Sài gòn xong (?) ngày 24 tháng 6 năm 1955. Tác phẩm gồm 25 chương. Dạng sách nói /audiobook của tác phẩm có 14 tập, do ông Thái Hòang Phi chọn đọc cho Tủ Sách Tinh Hoa của ông, và chia xẻ qua YouTube:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLngu3qzvJ3g1GG7-9TLdcAZ-8Xk9ccW3q
Giá trị lịch sử, văn hóa và xã hội
Đọc THVV, chúng ta sẽ thấy rõ sự chuyển mình của xã hội miền Nam Việt Nam từ Nho học sang tân học, với xu hướng thực tế của đại đa số dân chúng dần dần bỏ Nho học, bỏ việc học chữ Hán, mà theo học tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Đại diện cho nền cựu học là ông thầy đồ Huân với đầy đủ tiết tháo nhà Nho, trọng nhân nghĩa lễ trí tính, quý đạo đức thánh hiền hơn tiền bạc và hư danh. Ông cố gắng truyền thừa lại cho kẻ hậu học mà đại diện là nhân vật chính Phan Vĩnh Xuân, và nàng Lý thị Tư (tên tự là Cúc Hương do thầy Huân đặt). Các nhân vật phụ như bà Hương cả Thanh mẹ của Vĩnh Xuân, ông bà Kinh Lương người giúp đỡ VX khi chàng bắt đầu đi làm, bà Chủ Thiệu mẹ vợ VX, ba Khai người anh vợ, chị hai Tỷ hàng xóm, bán hàng gần chỗ với CH....Họ là những người chịu ảnh hưởng ít nhiều của thời kim tiền, dù vẫn còn cố giữ gìn nề nếp Nho giáo trong các quan hệ gia tộc cũng như ngoài xã hội, như cách "quyền huynh thế phụ" của anh ba Khai đối với Cẩm Nhung khi cô ngoại tình, rồi phải về ở trong nhà mẹ cô.
Thế hệ trẻ có học,sâu sắc, biết dựa vào nền tảng luân lý Khổng Mạnh mà xử thế cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, có chí tiến thủ lập thân, như VX và CH, suy tư và hành xử khác hẳn thanh niên thiếu nữ tân thời, , mà điển hình là người vợ trẻ Cẩm Nhung của VX, hời hợt, chỉ nghĩ tới mình, ham vui chơi, bất lường hậu quả. Cha mẹ và đàn anh của họ, nếu xu thời kim tiền, bất trọng việc học và tình nghĩa, như vợ chồng Hy Mỹ cha mẹ của CH, thì sẽ trở thành nạn nhân của chính họ và bị người chung quanh cười chê, xa lánh. Trong xã hội ấy, lại có hạng người khéo léo, biết dùng chức quyền chèn ép dân, hoặc móc nối, liên kết người này người kia, để thủ lợi riêng, được việc mình, mà làm giàu và thăng tiến trên hoạn lộ. Ông thông ngôn Khuê và mẹ vợ của VX cùng những người em trai, bà con trong gia đình bà, rơi vào hạng này.
THVV cũng đề cập các thú vui thanh tao nho nhã của người xưa nhuốm đậm ảnh hưởng Lão giáo: việc trồng cây môn của ông giáo Huân để tự nhắc mình rèn luyện tính thanh liêm thẳng thắn, chơi đàn kìm, thổi sáo, ngâm vịnh và làm thơ của ông Kinh Lương là tiêu biểu cho phong cách hưởng nhàn của người xưa theo Lão giáo. Biết khôn ngoan kết bạn, chia xẻ cùng những người đạo đức, đồng sở thích thanh tao ấy với mình của VX cho thấy ảnh hưởng này vẫn còn nơi một số người trẻ trong xã hội bấy giờ. Dù không nói rõ trong tác phẩm, tác giả ngầm phản đối cách sống buông thả, ích kỷ, xa luân thường đạo lý của những thanh niên nam nữ theo đợt sống mới như Cẩm Nhung.
Tác phẩm còn nói lên những nét văn hóa, đậm vẻ Á đông và thuần Việt như việc giao kết trăm năm thề thốt trước sự chứng giám của thần linh nơi chùa chiền, việc lễ bái, thờ phượng, đốt giấy vàng mã trước mộ của chị hai Tỷ, việc đóng khung lộng kiếng tấm vải lụa với bút tích từ biệt của CH để hoài niệm người quá cố của VX, lễ tơ hồng trong đám cưới của VX với cô Hưởng (hậu kiếp của CH).
Giá trị giáo dục đạo đức
THVV đề cao các giá trị đạo đức dựa trên nền tảng tam giáo (Nho, Phật, Lão) trong quan hệ gia đình và xã hội của người Việt như hiếu đạo, nhân nghĩa, thủy chung, tình hàng xóm láng giềng và tình đồng hương. Tác phẩm ca ngợi tình mẫu tử của mẹ con VX, lòng tôn sư trọng đạo và tình thầy trò thâm sâu dù trải qua thử thách của thời gian lâu dài và bao nhiêu dâu bể giữa gia đình ông thầy Huân với học trò VX và CH, tán thán tính ăn ở đạo đức và có hậu của VX, dù làm đến chức ông phủ vẫn hướng về cội nguồn, trở lại thăm viếng mồ cha và CH, thăm gia đình thầy, cùng các hàng xóm và ân nhân xưa để tạ ơn. Mẫu người đạo đức như VX thật quý hiếm trong mọi thời đại, tuy vậy không phải không có trong xã hội Việt nam và loài người nói chung. VX đầy đủ nhân nghĩa lễ trí tín. Cái trí trong ứng xử của VX thể hiện rõ qua việc chàng cẩn thận không dám đường đột tự mình cả quyết cô Hưởng chính là CH đầu thai lại. VX không chủ quan, hấp tấp vội vàng, mà tìm cách minh xác lại qua trao đổi với mẹ, và sau đó, với những người từng biết CH lúc còn sinh thời. Chàng còn đưa cô Hưởng về lại quê xưa chốn cũ để dọ hiểu phản ứng của cô xem cô có thực là hậu kiếp của CH không. Do đó, tác dụng giáo dục đạo đức của tác phẩm bàng bạc qua nhiều chi tiết nhỏ trong suốt tác phẩm, từ khi nhân vật còn nhỏ cho đến lúc đã quá nửa đời người. Tinh thần lấy đạo đức làm nền tảng hành xử của nhân vật chính thật nhất quán suốt cả tác phẩm.
Vì sao cụ HBC để cho thầy Huân giải thích với dân làng cô Hưởng chính là CH, mà không phải là hậu kiếp của CH? Một phần có lẽ vì thầy Huân nặng Nho học, nên không theo cách giải thích về tiền kiếp hậu kiếp, luân hồi quả báo của nhà Phật. Ngoài ra, có thể vì thầy muốn chỉ ra cho người đời thấy hậu quả của hành động tham phú phụ bần của cha mẹ CH là sai quấy hoàn toàn, và như vậy ngay cả con của họ cũng bất bình, phản đối cách cư xử trước đây của vợ chồng Hy Mỹ đối với VX khi chàng còn hàn vi. Trọng việc học, khinh tài lợi cũng là nét đẹp đạo đức được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm.
Thuyết nhân quả, luân hồi của Đạo Phật
Triết lý Khổng Mạnh, Lão Trang đã được bàn đến ở trên. Nay chúng ta sẽ nói thêm về thuyết luân hồi và nhân quả của nhà Phật trong THVV. Đạo Phật thừa nhận có sự hiện hữu của thần thức trong thời gian 49 ngày sau khi một con người qua đời và trước khi thần thức ấy gá vào một xác thân mới để đi đầu thai lại. Thần thức của CH báo mộng cho VX về cái chết của nàng cùng những lời khuyên nhủ và dặn dò rất chi tiết để VX tiếp tục học cho thành tài. Cô nhấn mạnh sau này họ sẽ còn gặp lại để nối duyên xưa. Sau đó, một thời gian khá lâu dù tác giả không nói rõ bao nhiêu năm, thần thức ấy vẫn còn lãng vãng theo giúp VX cho đến khi VX học xong và CH phải đi đầu thai, nên từ đó cô không báo mộng nữa. Như vậy tác giả cho thần thức của CH tồn tại rất lâu, hơn 49 ngày.
Điểm thứ hai, HBC huyền thoại và ly kỳ hóa hậu thân của CH. Tác giả dường như chịu ảnh hưởng của truyện Liêu Trai Chí Dị của Tàu khi cho VX tình cờ gặp cô Hưởng và khi chàng gọi "Cúc Hương," thì cô Hưởng quay lại và đáp nếu chàng muốn xin cưới cô thì phải đến nhà hỏi cha mẹ cho đúng phép, rồi cô biến đi đâu mất, khiến chàng phải dọ hỏi người hàng xóm. Việc cô Hưởng giống CH từ hình dung cho đến giọng nói và các tính nết chính cũng là điều hy hữu ít thấy trong các chuyện thật được nghiên cứu và kể lại khắp trên thế giới về luân hồi, và tiền kiếp-hậu kiếp. Quả là cô Hưởng có nhớ một phần nào các chi tiết trong đời trước của cô là CH. Và quả là cô cũng hiếu học, thông minh, sắc xảo bằng, hay có phần hơn cả CH.
Nét đặc sắc của văn tài cụ HBC là khi cô Hưởng gặp lại bà mẹ Hy Mỹ của nàng CH tiền kiếp của cô tại nhà chị hai Tỷ, thì cô lạnh lùng và khó chịu ra mặt. Đoạn văn ấy rất thật và diễn tả rất đúng tâm lý người con có mối hận, và xung đột gay gắt với mẹ mình.
Tác giả cũng không để VX chấp nhận cả quyết ngay cô Hưởng chính là hậu thân của CH. Một phần có lẽ vì HBC muốn cho người đọc thấy VX là người chịu ảnh hưởng Nho học nặng hơn Phật học, và chàng biết dùng lý trí để phán đoán trường hợp hậu thân của CH, không muốn theo cảm tính cá nhân.
Tác giả dành hẳn một chương "Hậu quả" để nói về việc vợ chồng Hy Mỹ phải bị người con không muốn nhìn mặt sau bao năm xa cách, bị những người cùng xóm làng chê cười khi hậu thân của nàng CH trở về cạnh ông chồng nay là quan Phủ VX.
Nhân nào quả nấy còn thể hiện rõ ràng trong tác phẩm THVV qua trường hợp Cẩm Nhung phải gánh lấy hậu quả việc làm sai trái, không chu toàn nhiệm vụ làm dâu, làm vợ và làm mẹ của mình, cũng như việc VX chấp nhận lỗi của mình khi không thể yêu thương cô vợ CN khiến cô phải bỏ tìm cuộc vui khác bên ngoài gia đình.
Dù THVV có nói về thuyết luân hồi và thuyết quả báo nhà Phật, ảnh hưởng Khổng Mạnh vẫn còn rất sâu đậm trong suốt các tình tiết của tác phẩm.
Giá trị văn chương tả chân và văn chương hiện thực xã hội
THVV có nhiều đoạn tả chân, người và cảnh sinh động, cảnh chợ xổm bán lẻ, và cảnh chợ Tết cuối năm, cảnh ghe đò, cảnh phu phen giúp dọn hay sửa nhà thời xưa, rất quý về giá trị xã hội học, đáng trân trọng. Chúng ta được thấy lại cảnh trường lớp của một ông đồ Nho dạy chữ thánh hiền cho con em trong vùng, từ lớp "Đồng Âu" đến "Tứ Thơ, Ngũ Kinh,' rồi "Luận ngữ', "Mạnh Tử." Cảnh chùa chiền, thờ cúng, cũng như nếp sinh hoạt giá cả cách kiếm sống của người dân chốn thôn quê lẫn thị thành ở miền Nam Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Ngôn ngữ dùng trong THVV là ngôn ngữ bình dân nhưng cũng có cả cách nói năng của người có học trong xã hội thời ấy. Tác phẩm có số lượng nhân vật chính phụ khá đông đảo, gồm nhiều thành phần trong xã hội, vì vậy cách dùng ngôn ngữ của họ cũng rất đa dạng, phong phú. Tác giả đặc biệt kể rất chi tiết về giá cả sinh hoạt thời ấy. Đặc điểm này khiến THVV tăng thêm giá trị về tả chân và hiện thực xã hội.