Your vision will become clear only when you look into your heart.... Who looks outside, dreams. Who looks inside, awakens. Carl Jung
Saturday, December 13, 2025
AI is making job hunting harder. Here’s how to navigate it
AI is making job hunting harder,some experts say. Here’s how to navigate it.
By Claire Thornton Globe Staff, Updated December 6, 2025
It’s the question every job hunter seems to be wrestling with: How do you get
your resume past the AI bots and in front of a human decision-maker?
Turns out, Generative AI is creating challenges for many job seekers and
employers, many of whom are having a harder time connecting the right
candidates to roles, according to some experts.
When everyone can use ChatGPT to churn a personalized cover letter, job
seekers end up competing against more applicants. And for hiring managers,
application materials made using the technology start to look all too similar,said Ethan Mollick, a business professor at the Wharton School at the University of Pennsylvania. “Cover letters used to be an indicator of something, now they’re not,” said Mollick, who co-directs Wharton’s Generative AI Lab. “It’s an example of broader chaos.”
Also worrisome: Experts on race discrimination and other biases in technology are raising the alarm that AI could be more likely to reject applicants who have a disability, an accent, or marginalized identity. As the average length of the job-hunting period ticks upward,applicants must focus on building human connections at would-be employers and use AI to their advantage earlier in the job search process, said
Lynn Wu, another Wharton professor who studies AI. “The best thing to actually stand out in AI world is to have human connections,” Wu said.
Here are five things to know about AI screening in hiring:
How do AI screeners work? There are two main types.
Older versions of AI have been used for nearly a decade to screen for “key
words” in resumes that match words in the online job description, Wu said.
More recently, a smarter version of AI referred to as machine learning is used
to read cover letters and get a broader sense of whether an applicant is a
match, Wu said.
After an application makes it past the first, older AI screen, the so-called ML
screen will score the applicant, Wu said.
“Like, out of 0 to 100, how does this cover letter fit to the job,” said Wu,
adding that anyone above a cut-off score will get a first-round interview.
Many employers use both AI screens for a two-pronged approach, Wu said.
However, AI is changing so rapidly that many experts are still catching up to
what technology companies may be using to screen applications, she said.
Don’t forget key words in resume, but don’t overdo it
To get past the first AI screen, Wu said, make sure that lots of key words and required skills from the job description are in your resume.
However, don’t overdo it, says Hilke Schellmann, an AI researcher at New York University who wrote the book “The Algorithm: How AI Decides Who Gets Hired, Monitored, Promoted, and Fired, And Why We Need To Fight
Back.”
“Beware of looking too good on paper,” Schellmann told NYU News last
year. “Aim for a 60–85 percent match because AI might filter out resumes
that match the job description 100 percent, inferring they are a copy of the
job description."
Don’t use symbols or images that may trip up a biased AI screener
Schellmann said her research found AI screens are biased against symbols that vary from the 26-letter alphabet and standard punctuation, like ampersands (&) or tildes (~).
She told NYU News that applicants should use a simple template without images, columns, or special characters.
Highlight human connections in your cover letter (but also: get out and meet people you can reach out to for jobs)
Wu, who has taught at Wharton since 2012, said nearly half of all jobs in the
US still come from personal referrals.
In the age of AI, any human connection such as a coffee chat or college
alumni group will help a candidate stand out, she said.
A coffee chat can even be done remotely over Zoom, she said, and then an
applicant can write about that personal conversation in a cover letter.
From there, the smarter machine learning AI might recognize that the
candidate is a strong fit for the company, she said.
“Write that you had a coffee chat — or even just met someone — and mention
it high up in the cover letter," she said. “Any kind of personal touch — not AI
touch, surprisingly — helps you get past AI."
Do use AI to find roles you’re a good match for
Using AI earlier in the job hunt can help you more efficiently find roles that
are good for you, Mollick said.
Job seekers, especially young people new to work, can ask ChatGPT to find
specific job listings that correlate with their skills, background and other
parameters, he said. You can even feed ChatGPT your resume and ask it how
to best position yourself for job applications, Mollick said.
“AI is usually pretty good at giving advice,” he said. “You can use it as a job
counselor, adviser or helper to put your best foot forward.”
Claire Thornton can be reached at claire.thornton@globe.com. Follow Claire on X
@claire_thornto.
Friday, December 12, 2025
Bộ sưu tập các tác phẩm Hán văn của tủ sách Hoàng Xuân Hãn được đưa vào thư viện của Viện Đông Á (IAO, Lyon)
Bộ sưu tập các tác phẩm Hán văn của tủ sách Hoàng Xuân Hãn
được đưa vào thư viện của Viện Đông Á (IAO, Lyon)
François Guillemot - Nghiêm Thanh Hương
Đã từ nhiều năm, thậm chí trong nhiều thập niên, các nhà nghiên cứu Việt Nam học tự hỏi tủ sách nghiên cứu của học giả Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) bây giờ ra sao. Năm 2025, thông qua cháu ngoại của ông, toàn bộ tủ sách của ông đã ra khỏi bóng tối để đạt một tầm vóc mới.
Quá trình tiểu sử của nhà học giả lỗi lạc này, được ghi lại khi ông qua đời ngày 10 tháng 3.1996 ở tuổi 88, thể hiện một mối quan tâm kiên định, tìm hiểu về thế giới chung quanh, gia phả dòng họ, và những dòng dõi của lịch sử đất nước. Như Nghiêm Phong Tuấn nêu lên trong một bài báo mạng vinh danh sự uyên bác của ông Hãn, “có khi ông phát hiện tài liệu lịch sử như trong một kịch bản trinh thám”.1 Từ một tấm bia xẻ làm hai, vùi trong đất, ông có thể mô tả cụ thể sự bạo tàn của cuộc xâm lăng nhà Minh trong thế kỷ XV.
Sinh viên Trường Bách Khoa năm 1930, kỹ sư cầu đường năm 1934, thạc sĩ toán năm 1936, giáo sư, học giả Việt Nam của thế kỷ XX, ngoài tầm cỡ đặc biệt của ông, Hoàng Xuân Hãn còn là cầu nối giữa Pháp và Việt Nam2. Mối liên hệ này xuyên qua ba mảng đề tài:
Vấn đề Cổ/Kim: chuyển đổi từ thời kỳ cổ xưa sang hiện đại, như với quyển Danh từ khoa học, xuất bản năm 1942, và các nghiên cứu uyên thâm của ông về hai tác phẩm kinh điển Kim Vân Kiều (Truyện Kiều) và Chinh phụ ngâm, hay nghiên cứu lịch sử về danh tướng Lý Thường Kiệt (1019-1105). Hoàng Xuân Hãn, cũng như Nguyễn Văn Tố (1889-1947) và vài học giả khác, là người truyền đạt lịch sử và văn hoá.3
Vấn đề văn hoá Tây phương/Đông phương: văn hoá Việt được thêm phong phú khi ông kết hợp lý tính Tây phương trong các lĩnh vực khoa học (lịch sử, địa lý, triết học, toán, y học) với những giá trị truyền thống của nền văn hoá Việt (đặc biệt qua những dẫn chứng về Phật giáo, vũ trụ luận hay văn hoá chịu ảnh hưởng Trung Hoa) 4
Vấn đề đối thoại chính trị: Hoàng Xuân Hãn là Bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật trong chính quyền ngắn ngủi đầu tiên của Việt Nam độc lập khỏi Pháp nhưng vẫn còn chịu uy quyền của Nhật. Với tư cách ấy, ông đã “Việt Nam hoá” toàn bộ chương trình giảng dạy. Năm 1971, ông cũng đưa ra trong “Một vài kỹ vãng về Hội nghị Đà Lạt” một biên bản chi tiết về Hội nghị Đà Lạt năm 1946, để phân tích rõ hơn sự thất bại của cuộc đối thoại Pháp-Việt, ủng hộ quan điểm của Việt Nam vượt qua những căng thẳng nội bộ phía Việt Nam. 5
https://www.diendan.org/bo-suu-tap-cac-tac-pham-han-van-cua-tu-sach-hoang-xuan-han-duoc-dua-vao-thu-vien-cua-vien-dong-a/BibHXH_2.JPG
Nhìn chung bộ sưu tập các tác phẩm Hán văn của Hoàng Xuân Hãn tại Viện IAO. Hình FG
Trong bối cảnh ấy, nhìn xa trông rộng, Hoàng Xuân Hãn đã kiên trì giúp Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại, như Nguyễn Minh Vũ trong một bài đăng trên mạng, nhắc lại nội dung bức thư của ông gửi Phạm Văn Đồng và đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1996, nhân dịp Tết Bính Tý:
“đức tính người lãnh dạo, những vấn đề của các dân tộc thiểu số, cuộc tranh chấp hải phận, vấn đề Cambodge, những vấn đề nợ quốc tế, vấn đề bom hạt nhân của Trung Quốc, sự cần thiết thành lập quan hệ với Hoa Kỳ; nhiều vấn đề nêu lên trong bức thư vẫn còn là thời sự nóng bỏng ngày nay”.6
Sự “pha trộn” giữa dấn thân với cao vọng chính trị, chuyển đổi sang chữ quốc ngữ7, nghiên cứu cơ bản về văn hoá, từ vựng khoa học, văn chương Nôm và lịch sử cổ đại, vai trò nổi bật của một trí thức sống xa đất nước, lòng yêu nước sâu nặng ... Hoàng Xuân Hãn đã là nguồn cảm hứng cho nhiều người và ngay từ năm 1945 đã phác hoạ một hướng đi mẫu mực cho một nước Việt Nam hoà giải trong tương lai.
Tủ sách Hoàng Xuân Hãn được bảo trì trong một ngôi nhà ở Orsay, hầu như không ai được vào tham khảo cho đến khi con rể ông Hãn, Nghiêm Xuân Hải, qua đời năm 2023. Tủ sách nổi tiếng là có nhiều bảo vật về hai nền văn hoá Việt và Trung Hoa, như những bản khắc gỗ chữ Nôm và các sổ tay nghiên cứu của ông, đặc biệt là công trình nghiên cứu trong hơn 50 năm về Kim Vân Kiều8. Qua hợp tác ba bên, tủ sách của học giả lỗi lạc này đã đến với ba cơ quan ở Pháp: các tài liệu chữ quốc ngữ và Nôm được đưa vào Thư viện đại học các ngôn ngữ và nền văn minh (Bibliothèque universitaire des langues et civilisations – BULAC) ở Paris, các tác phẩm Hán văn về Thư viện của Viện Đông Á (Institut d’Asie Orientale - IAO) ở Lyon, thư từ và các bản chép tay về Thư viện Quốc gia Pháp. Đặc biệt, BULAC đã đề nghị một giải pháp để nhanh chóng đưa vào sử dụng (lưu trữ, kiểm kê, số hoá). Những tài liệu Nôm quí giá đã được đưa ngay vào một chương trình số hoá của BULAC để các nhà nghiên cứu quốc tế có thể truy cập trên mạng.
Kho sách đến IAO ngày 25.6.2025
Qua trung gian bà Nghiêm Thanh Hương, cháu ngoại ông Hãn, được các anh chị em tiếp tay, thư viện của IAO đã đón nhận 25 thùng ấn phẩm Hán tự vào ngày thứ tư 25.6.2025. Kho sách đã được phân loại sơ khởi để xác định số lượng và nội dung, và hiện để tạm trong một văn phòng của IAO trên gần 30 thước kệ sách (khoảng 2 000 quyển). Kho sách gồm một vài bộ sưu tập lớn sách văn học cổ điển và lịch sử, và một số tác phẩm đủ loại về khoa học và kỹ thuật, ngôn ngữ học và triết học Trung Hoa. Chương trình xử lý các bộ sách này dự trù bắt đầu tháng 10.2025. Mỗi ấn phẩm đưa vào danh mục sẽ được xác định qua một con dấu riêng và phần ghi chú trong hệ thống thống nhất quản lý thư viện SIGB. Viện IAO sẽ thông báo khi nào kho sách có thể được tham khảo.
Như thế, thông qua ba cơ quan này ở Paris và Lyon, công trình quan trọng của « nhà ái quốc không đảng phái »9 này, thường được các nhà nghiên cứu ngày nay viện dẫn, dựa vào những bài viết, ý tưởng và thơ văn của ông, sẽ được đưa ra cho toàn thể cộng đồng quốc tế tra cứu. Phần nào đó, qua tất cả những khía cạnh văn hoá, khoa học và chính trị nêu trên, toàn bộ kho sách này có tầm vóc một di sản. Cũng vì thế, năm 2000, bốn năm sau ngày tạ thế, Hoàng Xuân Hãn đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho ba tác phẩm lịch sử quan trọng nhất của ông: Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu tử và Lịch và Lịch Việt Nam ( NXB Khoa học xã hội, 2003). Trước đó, toàn bộ những tác phẩm của ông đã được NXB Giáo dục ấn hành năm 1998, gồm ba tập : 1. Nhân chứng, 2. Con đường và cảm nghĩ, 3. Trước tác (Văn học).10
Như nhà văn Hữu Ngọc viết năm 2014 trong một bài tưởng niệm Hoàng Xuân Hãn: “Trong bốn thập niên cuối đời ở Pháp [từ năm 1951], ông đã có những cống hiến vô cùng to lớn cho đất nước qua các công trình nghiên cứu và tác phẩm uyên bác” 11. Về cuộc đời của mình, Hoàng Xuân Hãn đã thổ lộ những lời xúc động này với nhà văn Nguyễn Đức Hiền năm 1994: “Hoàn cảnh đã không cho phép tôi tham gia công cuộc giải phóng đất nước, từ đó tôi đã hết sức cố gắng góp phần giải phóng đồng bào ta về mặt tri thức và văn hoá, đưa họ ra khỏi cái lồng chật chội và trống rỗng của người nô lệ”. 12 Một công việc dài hơi vẫn được những học giả ngày nay kiên trì đeo đuổi.
François Guillemot và Nghiêm Thanh Hương
9.7 2025
(Bản dịch : Đỗ Tuyết Khanh)
Nguồn bản gốc : Indomemoires 9.7.2025
Chú thích :
1. Báo mạng của Trường Bách Khoa: Nghiêm Phong Tuấn, “Un polytechnicien au cœur de la tourmente vietnamienne : Hoàng Xuân Hãn (30), 1909–1996”, La Jaune & La Rouge, Magazine n° 521, janvier 1997. URL : https://www.lajauneetlarouge.com/un-polytechnicien-au-coeur-de-la-tourmente-vietnamienne-hoang-xuan-han-30-1909-1996/ (dành cho người mua dài hạn)
2. Những bài viết tưởng niệm trên mạng:
Nghiêm Phong Tuấn, 1997, bài đã dẫn, ; Nguyễn Minh Vũ, “Hoàng Xuân Hãn (1908-1996)”. Nguyên tác tiếng Việt, bản dịch và chú thích của Vũ Ngọc Quỳnh. [2012?] ; Hữu Ngọc, “Les tourments d’un éminent lettré”, Le Courrier du Vietnam, 02/11/2014. URL : https://lecourrier.vn/les-tourments-dun-eminent-lettre-160/125362.html
3. Những bài viết chính của ông có thể truy cập trên Gallica
4. Đặc biệt, ông đã lập một lịch tương đương ngày tháng rất hữu ích cho nghiên cứu lịch sử cổ đại.
5. Một vài kí vãng về hội nghị Đà Lạt, Sài Gòn 1971, in lại ở Paris, AVAC, 1987
6. Nguyên Minh Vũ, bài đã dẫn.
7. Chữ quốc ngữ : ngay năm 1938, ông đã đồng sáng lập Hội Truyền bá Quốc Ngữ, do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng. Ban Trị sự lâm thời của hội gồm nhiều nhân vật nổi bật. Ngoài Nguyễn Văn Tố còn có Bùi Kỷ, Tôn Thất Bình (Hội phó), Phan Thanh (thư ký), Phạm Hữu Chương và Quản Xuân Nam (phó thư ký), Đặng Thai Mai (thủ quỹ), Nguyễn Văn Lô và Võ Nguyên Giáp (phó thủ quỹ), Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn và Lê Thước (cố vấn), Trần Văn Giáp và Lê Thăng (uỷ viên). Nguồn: Trung tâm lưu trữ quốc gia I
8. Tác phẩm sẽ do NXB Nhã Nam (Hà Nội) xuất bản cuối năm 2025.
9. Hữu Ngọc, 2014, bài đã dẫn
10. Các tác phẩm này có thể tham khảo trong các bộ sưu tập tiếng Việt của IAO
11. Hữu Ngọc, 2014, bài đã dẫn
12. Hữu Ngọc, 2014, bài đã dẫn
Các thao
Wednesday, December 10, 2025
Năm 2025 chỉ là dấu hiệu đầu tiên cho một chu kỳ lụt triền miên
https://www.facebook.com/groups/groupnguoivietcali/posts/25674829955456173/
... Năm 2025 chỉ là dấu hiệu đầu tiên cho một chu kỳ lụt triền miên nếu không có thay đổi.
Nguyên nhân đầu tiên cho thấy rừng đóng vai trò như lớp đệm điều tiết nước tự nhiên. Khi rừng còn, nước mưa thấm chậm, giảm nguy cơ lũ đột ngột và hạn chế sạt lở.
Thế nhưng trong nhiều năm, rừng tự nhiên đã bị triệt phá để nhường chỗ cho các dự án thủy điện nhỏ, khu du lịch, dự án bất động sản và khai thác gỗ trái phép. Nhiều hoạt động phá rừng diễn ra công khai, có tổ chức, thậm chí có sự bao che của cán bộ nhà nước.
Việt Nam cũng nhiều lần vận động trồng rừng nhưng rừng trồng thay thế không thể bù lại chức năng giữ nước và chống xói mòn của rừng nguyên sinh.
Khi rừng biến mất, nước mưa không còn gì giữ lại, đổ ập xuống các vùng thấp, biến những cơn mưa lớn thành lũ chỉ trong vài giờ. Đây là hậu quả của quản lý yếu kém, không phải lỗi của thiên nhiên.
Trong hai thập kỷ qua, hàng trăm thủy điện nhỏ được xây dựng với mật độ dày đặc. Chúng phá rừng để lấy đất cho hồ chứa, làm biến dạng dòng chảy tự nhiên của các con sông, khiến nước tích tụ bất thường. Khi mưa lớn, các hồ phải xả đập để bảo đảm an toàn công trình, tạo ra dòng nước khổng lồ dồn về hạ du, làm lũ nặng hơn và bất ngờ hơn.
Điều đáng nói là nhiều thủy điện nhỏ được phê duyệt không xuất phát từ nhu cầu năng lượng quốc gia mà từ lợi ích nhóm. Chúng đóng góp rất ít vào nguồn điện nhưng lại gây ra hậu quả môi trường cực kỳ lớn.
Nguyên nhân khác là đô thị hóa sai và bê tông hóa cực độ biến thành phố trở thành chảo nước
Hầu hết các đô thị lớn của Việt Nam đang trả giá cho việc phát triển quá nhanh và thiếu khoa học. Những sai lầm lặp lại ở nhiều nơi như lấp kênh rạch để xây dựng, san đồi làm dự án, phủ kín đất bằng bê tông và nhựa đường, xây cao ốc dày đặc mà không có hệ thống thoát nước tương xứng.
Đà Lạt vốn là thành phố trên cao với khả năng thoát nước tự nhiên rất tốt, nay bị bê tông hóa thành lòng chảo. Nha Trang mất rừng đầu nguồn khiến dòng nước đổ thẳng xuống thành phố mỗi khi mưa lớn. Huế ghi nhận mưa kỷ lục và thiệt hại nặng nề vì rừng xung quanh bị tàn phá và tốc độ phát triển đô thị quá nhanh. TP. Hồ Chí Minh mất hàng trăm con kênh rạch do lấp để xây dựng, khiến nước gần như không còn đường thoát.
Đây không phải lỗi của mưa. Đây là hậu quả của quy hoạch đô thị sai lầm kéo dài suốt nhiều năm.
Tham nhũng chính là nguyên nhân gốc khiến mọi giải pháp đều thất bại.
Không thể phân tích vấn đề lũ lụt mà bỏ qua yếu tố tham nhũng. Thực tế cho thấy nhiều vụ phá rừng quy mô lớn không thể diễn ra nếu không có sự bảo kê. Các dự án lấp suối, lấp hồ, chiếm hành lang thoát nước không thể được phê duyệt nếu không có những mối quan hệ lợi ích. Thủy điện nhỏ mọc lên hàng loạt không thể có nếu quy trình thẩm định minh bạch. Quy hoạch đô thị không thể bị bẻ cong nếu không có những sự thỏa hiệp nằm ngoài lợi ích của người dân.
Khi tham nhũng chi phối tài nguyên, đất đai, quy hoạch và xây dựng, mọi nỗ lực chống lụt đều trở nên vô nghĩa. Lũ lụt trở thành hậu quả tất yếu của một hệ thống vận hành sai.
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt khi rừng đã mất đến ngưỡng không thể giữ nước; thủy điện nhỏ xuất hiện quá nhiều khiến dòng chảy bị biến dạng; đô thị đã bê tông hóa đến mức thiên nhiên không còn đường thấm; hệ thống thoát nước không theo kịp tốc độ phát triển; khí hậu cực đoan làm mưa tập trung với cường độ lớn.
Khi toàn bộ hệ thống tự nhiên và hạ tầng đô thị cùng lúc suy yếu, lũ lụt không còn là sự cố nhất thời mà trở thành hiện tượng lặp lại có tính hệ thống. Nếu không thay đổi, các năm sau chắc chắn sẽ nghiêm trọng hơn năm 2025.
Lụt năm 2025 không phải là rủi ro bất ngờ. Đây là kết quả của quá trình phá rừng, xây dựng thủy điện nhỏ thiếu kiểm soát, đô thị hóa sai quy hoạch và tham nhũng trong quản lý tài nguyên kéo dài nhiều thập kỷ.
Nếu Việt Nam không dám nhìn thẳng vào sự thật và không cải cách thật sự từ gốc, thì lụt lụt triền miên sẽ trở thành một phần bình thường của tương lai.
Lũ lụt năm nay chỉ là khởi đầu. Lũ những năm tới có thể trở thành định mệnh của đất nước nếu không có bước chuyển mình kịp thời và quyết liệt.
Tuesday, December 9, 2025
Taiwan seeks Japan talent to solve chip worker shortage
https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/en/news/backstories/4448/
Taiwan seeks Japan talent to solve chip worker shortage
Taiwan leads the world in cutting-edge semiconductor production, but the industry is struggling with a human resources shortage. To remedy this, it has launched a program to attract Japanese students to foster future talent.
Program boasts attractive perks
A program in Taiwan for Japanese students began full-fledged operations at National Yunlin University of Science and Technology in September.
https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/en/news/backstories/4448/images/OerxheYrKbwvb34XpmiYNi87o2N4Zgr4A37zFTzt.jpg
Students study semiconductors at National Yunlin University of Science and Technology in Taiwan
The program provides exceptional financial assistance. Thanks to corporate donations, the students are fully exempt from the tuition of about 15,000 dollars for four years. They can even receive living expenses of 320 dollars every month.
Its 17 participants learn specialized skills needed to make semiconductors such as mechanical engineering and production management. Classes are in Chinese and English.
Ogawa Kodai graduated from the economics department at a university in Japan. He joined the program to acquire practical knowledge he could apply in the industry.
He says he's learning things he never would have in Japan, and that the program lets him do things on his own.
Universities alone can't solve problem
Taiwan's eagerness to attract Japanese students comes as Taiwanese company TSMC, the world's largest chipmaker, aims to open its second factory in Kumamoto Prefecture in southwestern Japan.
The head of the university, Chang Chuan-yu, stresses the need for more efforts to cultivate talent.
https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/en/news/backstories/4448/images/8C0VkzZInbHk3m4mKfJ41fuEpnc781jTz2Dv2I7p.jpg
National Yunlin University of Science and Technology President Chang Chuan-yu
Chang says, "Semiconductor makers need a lot of workers, but conventional universities can't keep up in developing human resources."
Japan, Taiwan universities team up on training
Universities in Japan and Taiwan are also working together. National Yang Ming Chiao Tung University, or NYCU, signed an agreement with four Japanese universities to grow talent for leading high-level research and development.
The universities have jointly set up a research institute, where a cleanroom, essential for making semiconductors, is available around the clock.
Ono Shinjiro, a graduate student in Japan, does research there to create next-generation semiconductors.
https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/en/news/backstories/4448/images/DlKAzwVxCqw5tJq3aywOUjY8A1eYXMGZXvjrJYEg.jpg
Ono Shinjiro conducts research at the institute.
He says the cleanroom is ideal for working on experiments whenever he wants.
During class, students sometimes have discussions with Taiwanese company officials to learn how to connect new technologies to businesses.
Taiwan's semiconductor industry's strong point is its human resources system that swiftly trains new workers. While they are in university, it provides them with high-level skills, and brings them into production sites as new staff who can be of assistance.
Ono says being in an environment close to companies and industries got him thinking about things from all angles, and really changed his mindset.
Taiwan companies have high hopes for program
Johnson Lee, the vice president of a Taiwan company, has high hopes for outcomes of the program.
https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/en/news/backstories/4448/images/2V7r2HqMPm5PsQfVWYByb4uPqUaTbRuKs2pBnovt.jpg
Johnson Lee, Vice President, Junsun Tech
Lee says participants can learn about the need to develop markets and competitive products.
The university plans to accept more Japanese students. A professor says Taiwan and Japan will work together to develop basic technology for next-generation semiconductors and create a win-win relationship.
Broad push aims to keep Taiwan on top
Academia, government, and companies in the industry are all working to ensure Taiwan stays the world's top semiconductor producer.
It's not just because chips are the backbone of Taiwan's economy. Amid growing military pressure from China, they are also seen as a tool to prevent conflict.
https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/en/news/backstories/4448/images/OATTQVO3hWNakds3pOmWepBtkLNJG2GVOO2hyk5L.jpg
Students study at National Yunlin University of Science and Technology in Taiwan
The policies are supported by Taiwan's focus on cultivating fresh talent, something it sees as essential for creating new technologies.
Taiwanese companies and universities say they are taking a long-term perspective when it comes to sustaining human resources.
For its part, Japan's semiconductor industry is expected to see significant benefits from strengthening collaboration with Taiwan.
Sunday, December 7, 2025
Thiên tai và nhân tai tại Việt Nam tháng 9, 10, 11 và 12 năm 2025
https://cdn2.tuoitre.vn/thumb_w/730/471584752817336320/2025/12/6/base64-17650145259461037010546.jpeg
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C5%A9_l%E1%BB%A5t_Vi%E1%BB%87t_Nam_2025
https://cdn2.tuoitre.vn/thumb_w/1100/471584752817336320/2025/12/4/base64-17648431675772040833791.jpeg
Đất đá đổ xuống toàn bộ mặt đường đèo Prenn trong khoảng 50m đường - Ảnh: M.V.
https://cdn2.tuoitre.vn/thumb_w/1100/471584752817336320/2025/12/4/base64-17648431677171781386538.jpeg
Đất đá chảy xuống đường từ khu vực núi thuộc đèo Mimosa - Ảnh: M.V.
Saturday, December 6, 2025
Japan is facing a dementia crisis – can technology help?
https://www.bbc.com/news/articles/c4g9e34yzvgo
Japan is facing a dementia crisis – can technology help?
Dec 06, 2025
Suranjana Tewari Asia Business Correspondent, Tokyo
https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/de17/live/7423b520-d188-11f0-8de5-0d4110f465fe.jpg.webp
Around seven million people suffer from dementia in Japan
Last year, more than 18,000 older people living with dementia left their homes and wandered off in Japan. Almost 500 were later found dead.
Police say such cases have doubled since 2012, underscoring a growing strain on the world's oldest society.
The crisis is further compounded by a shrinking workforce and tight limits on foreign workers coming in to provide care.
Japan's government has identified dementia as one of its most urgent policy challenges, with the Health Ministry estimating that dementia-related health and social care costs will reach 14 trillion yen ($90bn; £67bn) by 2030 - up from nine trillion yen in 2025.
In its most recent strategy, the government has signalled a stronger pivot toward technology to ease the pressure.
Across the country, people are adopting GPS-based systems to keep track of those who wander.
Some regions offer wearable GPS tags that can alert authorities the moment a person leaves a designated area.
In some towns, convenience-store workers receive real-time notifications – a kind of community safety net that can locate a missing person within hours.
Robot caregivers and AI
Other technologies aim to detect dementia earlier.
Fujitsu's aiGait uses AI to analyse posture and walking patterns, picking up early signs of dementia – shuffling while walking, slower turns or difficulty standing – generating skeletal outlines clinicians can review during routine check-ups.
"Early detection of age-related diseases is key," says Hidenori Fujiwara, a Fujitsu spokesperson. "If doctors can use motion-capture data, they can intervene earlier and help people remain active for longer."
Meanwhile, researchers at Waseda University are developing AIREC, a 150kg humanoid robot designed to be a "future" caregiver.
It can help a person put on socks, scramble eggs and fold laundry. The scientists at Waseda University hope that in the future, AIREC will be able to change diapers and prevent bedsores in patients.
https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/dea2/live/c1577710-d0dd-11f0-9fb5-5f3a3703a365.jpg.webp
Scientists at Waseda University in Tokyo are developing caregiving robots
Similar robots are already being used in care homes to play music to residents or guide them in simple stretching exercises.
They are also monitoring patients at night - placed under mattresses to track sleep and conditions - and cutting back on the need for humans doing the rounds.
Although humanoid robots are being developed for the near future, Assistant Professor Tamon Miyake says the level of precision and intelligence required will take at last five years before they are safely able to interact with humans.
"It requires full-body sensing and adaptive understanding - how to adjust for each person and situation," he says.
Emotional support is also part of the innovation drive.
Poketomo, a 12cm tall robot, can be carried around in a bag or can fit into a pocket. It reminds users to take medication, tells you how to prepare in real time for the weather outside and offers conversation for those living alone, which its creators say helps to ease social isolation.
"We're focusing on social issues... and to use new technology to help solve those problems," Miho Kagei, development manager from Sharp told the BBC.
https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/04e9/live/cc977c90-d189-11f0-abf3-97535f35adb4.jpg.webp
Toshio Morita (R) works at the Restaurant of Mistaken Orders
While devices and robots offer new ways to assist, though, human connection remains irreplaceable.
"Robots should supplement, not substitute, human caregivers," Mr Miyake, the Waseda University scientist said. "While they may take over some tasks, their main role is to assist both caregivers and patients."
At the Restaurant of Mistaken Orders in Sengawa, Tokyo, founded by Akiko Kanna, people stream in to be served by patients suffering from dementia.
Inspired by her father's experience with the condition, Ms Kanna wanted a place where people could remain engaged and feel purposeful.
Toshio Morita, one of the café's servers, uses flowers to remember which table ordered what.
Despite his cognitive decline, Mr Morita enjoys the interaction. For his wife, the café provides respite and helps keep him engaged.
Kanna's café illustrates why social interventions and community support remain essential. Technology can provide tools and relief, but meaningful engagement and human connection are what truly sustain people living with dementia.
"Honestly? I wanted a little pocket money. I like meeting all sorts of people," Mr Morita says. "Everyone's different - that's what makes it fun."
https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/729d/live/1bd57a40-d18b-11f0-abf3-97535f35adb4.jpg.webp
Sharp's Poketomo robot has been designed to give companionship to patients
Sunday, November 30, 2025
AI video slop is everywhere, take our quiz to try and spot it
https://www.npr.org/2025/11/30/nx-s1-5610951/fake-ai-videos-slop-quiz
AI video slop is everywhere, take our quiz to try and spot it
November 30, 20255:00 AM ET
By Geoff Brumfiel, Sanidhya Sharma
There are a few simple dos and don'ts you can use to try and evaluate the authenticity of what you see online.
Don't assume everything is fake
With so much slop in our feeds, it's easy to think that everything you see online is fake. But that bias is just as dangerous as believing everything you see is real, warned Kolina Koltai, a senior investigator at Bellingcat, an organization that specializes in open-source investigations. Bystander videos remain an extremely important source of evidence for misdeeds by individuals and law enforcement. When people stop believing those videos, researchers call it the "liar's dividend" because it makes it easier for bad actors to claim real events are fake to evade responsibility.
"I think that's one of the bigger risks when it comes to this kind of content," said Koltai. "It's not that someone's going to believe a fake video, it's that people won't believe real videos."
Koltai and others say it's especially important to carefully consider videos that might provoke a strong emotional response or run contrary to your beliefs. Real videos are often complicated situations that can provoke a response that challenges our understanding of the world. That being said, many fake videos are designed to do just that, in order to drive engagement.
Do pay attention to some simple features of the video
AI-generated videos are already excellent and improving quickly, said Hany Farid, a professor at the University of California, Berkeley who studies manipulated media. Even experts can be duped, he said. "I've been doing this every day for a long time, and it's really hard. It's really hard."
But there are some fairly straightforward features that can clue you in to whether the content you're watching might be AI. The biggest tip is the video length.
Most companies limit the lengths of AI videos "because making these videos is computationally very expensive," Farid said. Many videos end up being just 8-10 seconds in length. While it is possible to cobble together a longer video with a bunch of short cuts, "when you see those little bite-sized videos, it's a good indication that you should take a breath."
Length isn't the only thing; AI-generated videos tend to perfectly frame their subject, said Farid. The main characters in the video are prominently featured, and the action starts and stops cleanly, even if the video is short. That's one reason the quiz video of the New York City police officer shouting at ICE agents is obviously fake.
"It has that kind of almost professional look to it," he said. The position of the camera can also be strange–is it too close to the subjects of say, an ICE raid? Or does it move too smoothly to follow a running animal as if it's on a gimbal? Those could be clues it's generated by AI.
Do check the context
The features of a video are important, but the place it's being shared can sometimes matter even more, said Caulfield.
Checking where a video was posted and even simply looking at the comments can provide powerful clues. For example, the second video of an ICE raid in the quiz came from a Reddit community for the Logan Square neighborhood of Chicago.
Similarly, look at who posted the video. If they have other sorts of content on their feed than just immigration raids, it lends credibility to the idea that they witnessed the raid. "It might be easy to fake a video but it's hard to get into a time machine and build yourself ten years of history talking about Chicago hot dogs," Caulfield said.
If you're unsure whether the video you're seeing was originally posted by the account you're watching, try a simple reverse image search on Google or another platform. Often such searches can turn up the original post, other videos from the same event or news reports that either confirm or refute the video. Both the Logan Square ICE raid and the moose eating popcorn were reported by the media at the time they happened.
Conversely, identifying an AI video is often as simple as looking carefully at the account that posted it. It's common for accounts to identify their content as AI-generated in their profile description, said Koltai. Even if they don't, checking the comments can often reveal that many people believe a video is AI-generated.
Don't feel like you have to share it, especially if you have doubts
Finally, all three researchers agree that in an age where algorithms reward speed over accuracy, sharing is not really caring.
Much of the AI content being shared online is engagement bait, said Koltai. Its creators "often have a monetary incentive to get you to like, comment, and share, because it often results in them making more money," she said.
When in doubt, Caulfield said, the best thing may be to wait. "You don't necessarily have to be the first one to share this thing, you can be the person who waits," he said. Often within a matter of hours, a video of an event will be confirmed by corroborating videos or news reports.
Many people might not think it matters whether you share an AI video of bunnies jumping on a trampoline, or a cat snatching a snake from its owner's bed, but experts agree that it does. When people are duped by AI videos, it erodes faith in the videos that matter.
"People are like oh is it really that big a deal?" she said. But Koltai said everyone should be worried. "If we are unable to tell what's real and what's unreal online? That to me is really incredibly dangerous."
Hany Farid agrees: "Every one of those likes, clicks, shares, engagements, you're part of the problem at this point," he said.
Chomsky with Epstein
https://www.theguardian.com/us-news/2025/nov/22/noam-chomsky-jeffrey-epstein-ties-emails
Chomsky had deeper ties with Epstein than previously known, documents reveal
Ramon Antonio Vargas
Sat 22 Nov 2025 08.00 EST
The prominent linguist and philosopher Noam Chomsky called it a “most valuable experience” to have maintained “regular contact” with Jeffrey Epstein, who by then had long been convicted of soliciting prostitution from a minor, according to emails released earlier in November by US lawmakers.
Such comments from Chomsky, or attributed to him, suggest his association with Epstein – who officials concluded killed himself in jail in 2019 while awaiting trial on federal sex-trafficking charges – went deeper than the occasional political and academic discussions the former had previously claimed to have with the latter.
Chomsky, 96, had also reportedly acknowledged receiving about $270,000 from an account linked to Epstein while sorting the disbursement of common funds relating to the first of his two marriages, though the Massachusetts Institute of Technology (MIT) professor has insisted not “one penny” came directly from the infamous financier.
The emails disclosed on 12 November by the Republican members of the US House oversight committee generally detailed the correspondence Epstein had with political, academic and business luminaries, including the Bill Clinton White House’s treasury secretary Larry Summers and Steve Bannon, the longtime ally of Donald Trump. Further, they reveal Epstein and Chomsky were close enough to discuss musical interests and even potential vacations.
Perhaps the most telling of the Chomsky-related documents in question was a letter of support for Epstein attributed to Chomsky with the salutation “to whom it may concern”. It is not dated, but it contains a typed signature with Chomsky’s name and citing his position as a University of Arizona laureate professor, a role he began in 2017, as first reported by the Massachusetts news outlet WBUR.
Epstein pleaded guilty in 2008 in Florida to state charges of solicitation of prostitution and solicitation of prostitution with a minor. He served 13 months of an 18-month sentence and was released in July 2009.
“I met Jeffrey Epstein half a dozen years ago,” read the letter of support from Chomsky that was reviewed by the Guardian after its Republican House oversight committee release. “We have been in regular contact since, with many long and often in-depth discussions about a very wide range of topics, including our own specialties and professional work, but a host of others where we have shared interests. It has been a most valuable experience for me.”
It is unclear whether Chomsky sent the letter to anyone. Nonetheless, it exalts Epstein for teaching Chomsky “about the intricacies of the global financial system” in a way “the business press and professional journals” had not been able to do. It boasted about how well connected Epstein was.
“Once, when we were discussing the Oslo agreements, Jeffrey picked up the phone and called the Norwegian diplomat who supervised them, leading to a lively interchange,” the letter read. The letter recounted how Epstein had arranged for Chomsky – a political activist, too – to meet with someone he had “studied carefully and written about”: the former Israeli prime minister Ehud Barak.
Epstein had – “with limited success” – aided efforts from Chomsky’s second wife, Valeria, to introduce him “to the world of jazz and its wonders”, the letter continued.
It concluded, “The impact of Jeffrey’s limitless curiosity, extensive knowledge, penetrating insights and thoughtful appraisals is only heightened by his easy informality, without a trace of pretentiousness. He quickly became a highly valued friend and regular source of intellectual exchange and stimulation.”
Another notable communication involving Chomsky and Epstein is a 2015 email in which the latter offers the former use of his residences in New York and New Mexico.
The emails don’t indicate whether Chomsky took advantage of the offer, whose particulars surfaced as certain officials are striving to investigate allegations of crimes by Epstein at a ranch compound he owned outside Santa Fe, New Mexico.
Interest in the Epstein case has surged in recent months after Trump – a former friend of his – pledged to release a full list of the late financier’s clients while successfully running for a second presidency in 2024. However, after he took office in January, Trump’s justice department declared no such list existed and said that it would not be releasing any additional files related to Epstein’s prosecution, igniting a bipartisan furor that the president sought to dismiss as a Democratic “hoax”.
Yet the pressure was enough that Trump on Wednesday signed a legislative bill directing his justice department to release more of what has come to be collectively known as the Epstein files.
Chomsky is not the only renowned Massachusetts academic to be ensnared in the Epstein scandal. On Wednesday, Larry Summers relinquished a teaching role at Harvard University – where he was once president – after his email correspondence with Epstein revived questions about their relationship.
A statement that MIT provided to WBUR and the Guardian declined to comment on Chomsky but said the university in 2020 had reviewed its contacts with Epstein. “Following that review, MIT took a number of steps, including enhancements to our gift acceptance processes and donating to four nonprofits supporting survivors of sexual abuse,” the statement said.
The University of Arizona did not immediately reply to a request for comment on Chomsky. Neither did Chomsky. Nor did Valeria Wasserman Chomsky, who is a spokesperson for her husband – and in January 2017 sent an email to Epstein apologizing for not wishing him a happy birthday a couple of days earlier.
“Hope you had a good celebration!” she wrote to Epstein, according to the emails released by House oversight committee Republicans. “Noam and I hope to see you again soon and have a toast for your birthday.”
Chomsky hasn’t spoken publicly since he was reported in 2024 to be convalescing in Brazil after a stroke.
Anna Betts contributed reporting
Saturday, November 29, 2025
Thanksgiving Day -- Thankful ?
https://thuvienhoasen.org/a43318/con-duong-nuoc-mat-tan-tham-kich-lich-su-cua-nguoi-da-do-cherokee
Con Đường Nước Mắt – Tấn Thảm Kịch Lịch Sử Của Người Da Đỏ Cherokee
27/11/202510:43 SA(Xem: 292)
Nhân ngày Thanksgiving – Ngày lễ Tạ ơn của Hoa Kỳ chúng tôi giới thiệu về Con Đường Nước Mắt (Trail of Tears) - một trong những chương đen tối nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, liên quan đến việc cưỡng chế di dời hàng chục ngàn người bản xứ Mỹ (Native Americans) khỏi vùng đất tổ tiên của họ ở Đông Nam bộ nước Mỹ vào những năm 1830. Người bản xứ Cherokee bị quây lại trong các trại nhỏ không khác gì súc vật. Không chỉ vậy, họ không được phép thu dọn đồ đạc hay chuẩn bị lương thực, vật dụng cho chuyến hành trình và phải ra đi ngay lập tức. Những ngôi nhà của họ nhanh chóng bị cướp bóc và đốt phá...Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen.
…CON ĐƯỜNG NƯỚC MẮT
TẤN THẢM KỊCH LỊCH SỬ CỦA NGƯỜI DA ĐỎ CHEROKEE
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
-Từ cuối thế kỷ 18, người da trắng định cư Mỹ liên tục mở rộng về phía Tây, gây áp lực lớn lên các bộ lạc bản xứ ở khu vực Đông Nam (đặc biệt là các bang Georgia, Alabama, Tennessee, North Carolina, Florida).
-Năm 1830, Tổng thống Andrew Jackson ký Đạo luật Di dời Người da đỏ (Indian Removal Act), cho phép chính phủ liên bang ép các bộ lạc ký hiệp ước nhượng đất tổ tiên để đổi lấy đất ở phía Tây sông Mississippi (khu vực ngày nay là Oklahoma), được gọi là “Indian Territory”.
-Nhiều bộ lạc phản đối, đặc biệt là bộ lạc Cherokee – một trong “Ngũ Đại Bộ lạc Văn minh” (Five Civilized Tribes: Cherokee, Choctaw, Chickasaw, Creek, Seminole). Người Cherokee đã hội nhập rất sâu (có chữ viết riêng do Sequoyah sáng tạo, hiến pháp, báo chí, trường học...), thậm chí thắng kiện tại Tòa án Tối cao Mỹ (vụ Worchester v. Georgia 1832) khẳng định họ có quyền ở lại đất Georgia. Tuy nhiên, Tổng thống Jackson phớt lờ phán quyết nổi tiếng với câu nói: “Tòa án trưởng John Marshall đã đưa ra phán quyết, giờ để ông ấy đi thực thi nó đi”.
…
…CUỘC HÀNH TRÌNH CHEROKEE
TRÊN CON ĐƯỜNG NƯỚC MẮT (1838–1839)
Đây là cuộc di dời nổi tiếng và bi thảm nhất trong toàn bộ chính sách Indian Removal.
…
Bản đồ chi tiết các tuyến đường Cherokee trên Trail of Tears (1838–1839)
Có 3 tuyến đường chính mà người Cherokee bị ép đi từ vùng Đông Nam đến Indian Territory (Oklahoma ngày nay). Dưới đây là mô tả chi tiết từng tuyến kèm các điểm dừng quan trọng nhất (được đánh dấu trên Trail of Tears National Historic Trail ngày nay). Bản đồ chính thức của National Park Service (rất chi tiết, có đánh số từng đoạn đường) → https://www.nps.gov/trte/planyourvisit/maps.htm (Tải file PDF “Trail of Tears National Historic Trail Map” – có cả 3 tuyến)
NHẬT KÝ CỦA SAMUEL CLOUD –
MỘT CẬU BÉ CHEROKEE 9 TUỔI TRÊN CON ĐƯỜNG NƯỚC MẮT (1838–1839)
Đây là một trong những chứng từ cảm động nhất còn lưu lại, được cậu bé Samuel Cloud (sau này kể lại khi đã trưởng thành) viết dưới dạng thư gửi cho em trai nhỏ ở lại Bắc Carolina. Bản gốc được ghi chép bằng chữ Cherokee syllabary, sau được dịch sang tiếng Anh và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Cherokee và các bảo tàng Trail of Tears.
Dưới đây là bản dịch sát nghĩa sang tiếng Việt (được nhiều trường học Mỹ dùng để dạy về Trail of Tears):
________________________________________
Tháng Mười 1838 Hôm nay lính đến nhà mình lúc mặt trời vừa lên. Mẹ đang nấu ngô thì họ đạp cửa xông vào, la hét. Họ không cho chúng tôi mang theo gì cả, chỉ có quần áo trên người. Ba bị trói tay vì dám nói “đây là nhà của chúng tôi”. Em bé mới sinh của chị đang khóc. Họ lùa tất cả chúng tôi ra đường như lùa bò. Tôi ngoái lại nhìn lần cuối, thấy ngôi nhà nhỏ của chúng tôi bốc cháy.
Tháng Mười một 1838 Họ nhốt chúng tôi trong một cái chuồng gỗ lớn ở Fort Marr. Mưa suốt ngày đêm, nước ngập đến mắt cá. Có một bà cụ nằm chết ở góc chuồng, không ai dám lại gần. Mẹ ôm tôi ngủ để tôi khỏi lạnh. Mỗi ngày họ phát một ít ngô rang và thịt ôi. Tôi thấy một bé gái nhỏ hơn tôi ngã xuống bùn và không dậy nữa.
Tháng Mười hai 1838 Chúng tôi bắt đầu đi bộ. Đoàn có hơn một ngàn người. Tôi đếm được 13 cái xác bên đường chỉ trong ngày đầu tiên. Giày tôi rách toạc, chân chảy máu. Mẹ xé áo cho tôi quấn chân. Có những đêm lạnh đến nỗi nước mũi đóng băng trên mặt. Tôi nghe người lớn thì thầm rằng chúng tôi đang đi đến nơi “không có ngày mai”.
Một hôm sông Mississippi đóng băng. Quân lính bắt chúng tôi đi qua. Băng vỡ. Tôi thấy một người mẹ ôm con nhỏ bị nước cuốn trôi. Cô ấy không kêu, chỉ nhìn theo cho đến khi chìm hẳn.
Tháng Một 1839 Tôi không còn đi được nữa. Mẹ cõng tôi trên lưng. Mẹ gầy đến chỉ còn da bọc xương. Một đêm mẹ hát ru tôi bài hát cũ của bà ngoại, giọng khàn đặc vì lạnh. Mẹ nói: “Con phải sống, Samuel, để kể lại cho người khác nghe rằng chúng tôi đã từng có nhà”.
Tháng Hai 1839 Mẹ chết sáng nay. Mẹ nằm xuống bên đường, mắt vẫn mở nhìn trời. Tôi ngồi bên mẹ suốt ngày cho đến khi lính kéo tôi đi. Tôi không khóc được nữa, nước mắt đã đông thành đá trong mắt tôi. Tôi giữ lại một mảnh váy nhỏ của mẹ, màu xanh mà mẹ mặc ngày chúng tôi bị lùa ra khỏi nhà.
Tháng Ba 1839 Hôm nay chúng tôi đến nơi. Họ gọi đây là “Indian Territory”. Không có nhà, không có cây, chỉ có đất đỏ và gió lạnh. Tôi 9 tuổi mà đã thấy quá nhiều người chết. Tôi chôn mảnh váy xanh của mẹ dưới một gốc cây sồi nhỏ. Tôi thì thầm với mẹ: “Con đã đến nơi rồi, mẹ ơi. Giờ mẹ có thể ngủ”.
Em yêu quý, Nếu một ngày nào đó em đọc được những dòng này, hãy nhớ rằng chúng tôi đã từng có một ngôi nhà đẹp ở núi, có suối trong và rừng đầy nai. Hãy nhớ rằng người Cherokee không bao giờ đầu hàng, dù họ giết chúng tôi trên từng bước đường. Anh của em, Samuel Cloud (Người đi trên Con Đường Chúng Tôi Khóc)
Samuel Cloud sống sót, lớn lên ở Oklahoma, trở thành thầy giáo và là một trong những người đầu tiên ghi chép lại chứng từ sống của Trail of Tears bằng chữ viết Cherokee. Ông mất năm 1907, để lại lời nhắn cuối cùng: “Hãy kể cho con cháu các bạn nghe, để không ai được phép quên.”
Ngày nay, câu chuyện của Samuel Cloud được khắc trên bia đá tại nhiều điểm dừng chân của Trail of Tears National Historic Trail, đặc biệt ở Mantle Rock (Kentucky) và Bảo tàng Cherokee Nation (Tahlequah, Oklahoma).
Sunday, November 23, 2025
The American Revolution, a Documentary by Ken Burns
Ngập lụt đô thị không chỉ đến từ mưa lớn hay lũ thượng nguồn
https://tienphong.vn/ngap-lut-do-thi-khong-chi-den-tu-mua-lon-hay-lu-thuong-nguon-post1796710.tpo
Nguyễn Hoài (thực hiện)
16/11/2025 17:00
TP - TS Tô Văn Trường, chuyên gia về môi trường và tài nguyên nước, cho rằng, tình trạng ngập lụt nghiêm trọng tại nhiều đô thị thời gian qua không chỉ đến từ mưa lớn hay lũ thượng nguồn mà còn bắt nguồn từ “nhân tai” như quy hoạch thiếu tầm nhìn, bê tông hoá tràn lan… Ông cho rằng, đã đến lúc cần thay đổi tư duy chống ngập, chống bão sang tư duy thích ứng và quản trị rủi ro.
TS Tô Văn Trường chia sẻ với Tiền Phong góc nhìn về vấn đề ngập lụt đô thị cũng như các giải pháp thích ứng với thiên tai ngày càng dị thường, khốc liệt.
Hệ quả của mô hình phát triển phi bền vững
Thưa ông, thời gian qua, nhiều đô thị ở nước ta đối mặt tình trạng ngập lụt nghiêm trọng như Thái Nguyên, Bắc Ninh, Huế, Đà Nẵng… Đâu là nguyên nhân của tình trạng này, theo ông?
Như chúng ta biết, thời gian qua, nhiều khu vực ở trong nước đón mưa lớn kỷ lục. Tại Thái Nguyên và Bắc Ninh, hoàn lưu cơn bão Matmo đã gây ra mưa rất lớn khiến hai địa phương này hứng chịu ngập lụt diện rộng; riêng tại Thái Nguyên ngập sâu hơn cả năm 2024 khi siêu bão Yagi tàn phá. Những ngày cuối tháng 10 và đầu tháng 11, mưa lớn liên tục cũng gây ra lũ kỷ lục và ngập lụt diện rộng, kéo dài tại Huế, Đà Nẵng, để lại hậu quả rất nặng nề.
Tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận, ngập lụt hôm nay không chỉ là thiên tai đơn thuần, mà là hệ quả của mô hình phát triển phi bền vững. Chính con người vì chặt rừng, bít kín những nơi cần thoát nước, xây dựng tràn lan ven biển nên đã làm đứt gãy cơ chế tự bảo vệ của tự nhiên. Chúng ta tự dấn thân vào vùng nguy hiểm, rồi gọi đó là thảm họa.
Chúng ta cũng phải nhìn nhận, ngập lụt ở Việt Nam hôm nay không chỉ đến từ mưa lớn hay lũ thượng nguồn. Tại các đô thị, nguyên nhân chủ yếu nằm ở quy hoạch thiếu tầm nhìn, bê tông hóa tràn lan, san lấp ao hồ, hệ thống thoát nước cũ kỹ và bị lấn chiếm. Tại nông thôn, nơi từng là vùng trũng tự nhiên điều tiết nước cũng đang bị thu hẹp bởi các khu công nghiệp và khu dân cư mọc lên thiếu kiểm soát.
Trên góc độ liên vùng, chúng ta thấy lũ ở miền Trung không chỉ vì mưa cực đoan mà còn do phá rừng, hồ chứa vận hành thiếu đồng bộ. Ngập ở đồng bằng sông Cửu Long không chỉ vì nước từ thượng nguồn sông Mekong, mà còn do triều cường, nước biển dâng, lòng sông hạ thấp và sụt lún đất. Con người đã làm “cứng hoá” tự nhiên và loại bỏ khả năng thích ứng nội sinh của môi trường nước. Do đó, thiên tai hiện nay đã trở thành rủi ro kép vừa do tự nhiên, vừa do con người gây ra.
Cần chấm dứt việc san lấp ao hồ, kênh rạch để làm dự án bất động sản
Vậy theo ông, chúng ta cần triển khai các giải pháp gì để giảm thiểu úng ngập đô thị trong bối cảnh thiên tai ngày càng dị thường và khốc liệt?
Khi bàn đến chống ngập, không thể chỉ nhìn từ góc độ thủy lợi. Cần một cách tiếp cận tổng thể hơn, bao trùm cả quy hoạch đô thị, quản lý đất đai, môi trường, giao thông, năng lượng. Chống ngập không thể chỉ là “đắp đê, xây cống, làm trạm bơm”, mà phải là bài toán quản trị không gian nước, tái thiết đô thị và mô hình phát triển thích ứng.
Chúng ta có thể nhìn ra thế giới để thấy cách các nước đã thích ứng như thế nào. Hà Lan, nơi có một phần ba diện tích nằm dưới mực nước biển, không còn chống nước mà chuyển sang sống chung với nước, thực hiện dự án “Trả lại không gian cho sông”, khôi phục vùng trũng để nước tự nhiên điều tiết. Singapore đã xây dựng chiến lược quản lý nước tích hợp, coi mỗi cơn mưa là một phần của chu trình đô thị, kết nối hệ thống thoát nước với công viên, hồ điều hòa. Nhật Bản rất chú trọng giáo dục cộng đồng, diễn tập phòng chống thiên tai định kỳ và quản lý thông tin khí tượng cực kỳ chính xác.
Áp dụng vào bối cảnh Việt Nam, nơi đô thị hóa đã dày đặc, trả lại không gian không có nghĩa là di dời toàn bộ thành phố mà phải bắt đầu từ những hành động cụ thể và quyết liệt. Về quy hoạch, cần kiên quyết khôi phục và bảo vệ các vùng trũng, hồ điều tiết tự nhiên trong các quy hoạch mới. Chấm dứt việc san lấp ao hồ, kênh rạch để làm dự án bất động sản.
Hai năm qua, Thái Nguyên liên tiếp hứng chịu ngập lụt diện rộng, gây thiệt hại nghiêm trọng Ảnh: Hoàng Mạnh Thắng
Về kỹ thuật, tôi cho rằng cần ban hành quy định bắt buộc các dự án đô thị, khu công nghiệp mới phải có giải pháp trữ nước tại chỗ (như hồ điều hòa, mái nhà xanh, hầm chứa nước mưa) thay vì dồn hết gánh nặng ra hệ thống thoát nước chung. Về quản lý rừng và hồ chứa, phải bảo vệ nghiêm ngặt rừng đầu nguồn và có cơ chế vận hành hồ chứa liên tỉnh một cách đồng bộ, đặt mục tiêu an toàn hạ du lên hàng đầu.
Chúng ta cũng cần thay đổi tư duy trong phòng, chống thiên tai. Con người chỉ nhìn thấy mặt phá hoại của bão, lũ như nhà sập, đê vỡ, tàu chìm nên gọi chúng là thiên tai. Nhưng với góc nhìn của khoa học hiện đại, bão là một thành phần trong chu trình năng lượng của Trái đất, là “máy bơm nhiệt” đưa hơi ẩm và năng lượng từ xích đạo lên hai cực, giúp khí hậu toàn cầu bớt chênh lệch.
Nếu không có bão, hành tinh này sẽ nóng hơn, khô hơn, không khí bẩn hơn. Bão là cơ chế điều hòa nhiệt tự nhiên, làm mát đại dương. Cũng nhờ bão, lũ, nhiều vùng khô hạn có được lượng mưa, phù sa được bồi đắp, và đại dương được khuấy trộn, đưa dinh dưỡng từ tầng sâu lên, giúp hệ sinh thái biển phục hồi.
Tự nhiên vận hành theo quy luật. Thảm họa không nằm trong cơn bão hay trận lũ, mà nằm trong cách con người đối xử với thiên nhiên. Nhìn lại mình, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhưng cách tiếp cận vẫn phân tán theo ngành, thiếu cơ chế điều phối tổng thể. Giờ đây, khi Việt Nam đã có năng lực khoa học - kỹ thuật, đã đến lúc tư duy “phòng - chống” phải chuyển sang “hiểu - phòng tránh - thích ứng - quản trị rủi ro”.
Chúng ta cần một cơ quan thống nhất, đủ quyền lực, đủ dữ liệu, để kết nối giữa dự báo - quy hoạch - hành động. Cơ quan này phải được trao thực quyền để điều phối liên ngành, có quyền lực pháp lý để bác một dự án quy hoạch đô thị nếu nó không đảm bảo không gian thoát lũ; có thẩm quyền yêu cầu các hồ thủy điện vận hành đồng bộ theo hệ thống vì mục tiêu an toàn chung cho an toàn đập và phía hạ du.
Cảm ơn ông.
Thursday, November 20, 2025
Gia đình, những nỗi đau ngọt ngào
Trương Văn Dân – 15 tháng 11, 2025
https://tienphong.vn/ngap-lut-do-thi-khong-chi-den-tu-mua-lon-hay-lu-thuong-nguon-post1796710.tpo
Mấy năm trước có một số bạn văn và bạn đọc đã đề nghị tôi và Elena nên in chung một tập truyện. Và tập truyện mà các bạn đang cầm trên tay có chủ đề về những mối quan hệ trong gia đình và tình nghĩa vợ chồng.
Sự sắp xếp này này là hoàn toàn ngẫu nhiên, lựa chọn các truyện ngắn đã viết trong những năm qua, vì nếu chọn chủ đề rồi mới viết thì các bài viết có lẽ sẽ khác và thiếu tự nhiên.
Gia đình là một tế bào rất quan trọng. Xã hội có nhiễu nhương, văn hoá có thể xuống cấp, mọi thứ có thể đổi thay nhưng giá trị tình cảm trong gia đình thì không thể thay đổi. Chính sự yêu thương và đoàn kết của các thành viên mới là thành trì chống lại sóng gió bên ngoài. Chỉ khi đó mái ấm mới là nơi bình yên vì luôn dang tay che chở, là nơi ta tìm về khi mệt nhoài trên con đường đời đầy rẫy chông gai.
Gia đình giống như một vũ trụ thu nhỏ, nơi chúng ta học cách trở thành thành viên của xã hội lớn. Tất nhiên không có gia đình hoàn hảo, không có cha mẹ anh em hoàn hảo và cũng không có xã hội hoàn toàn tốt đẹp mà nhiều khi cũng có những va chạm, có những tổn thương và xáo trộn.
Xung đột có khi ở mức độ rất lớn và để lại những vết sẹo rất sâu. Vì thâm tình càng sâu thì khổ đau càng lớn.
Khi cuộc sống an vui thì mọi thứ bình thường và những khác biệt không dễ thấy. Nhưng gặp lúc khó khăn hay phân chia quyền lợi thì khi ấy mới biết ai mới là anh em, ai là đối thủ hay kẻ bàng quan như khách qua đường.
Người đời thường tranh nhau vì tiền bạc chứ mấy ai hiểu là chúng ta chỉ thực sự hạnh phúc khi mạnh khỏe và được chia sẻ yêu thương.
Các thứ khác chỉ là phù phiếm.
Hiện nay ở các nước phương Tây (mà Việt Nam cũng không khác mấy) người ta thống kê là 60% các cuộc hôn nhân chỉ sau vài năm đều kết thúc bằng ly thân. Và cái tỷ lệ phần trăm đó không ngừng tăng. Lý do phần lớn do các mâu thuẫn về quan điểm sống, thiếu cảm thông chia sẻ hoặc nóng giận rồi chủ quan buộc tội nhau bằng lý lẽ sai sự thật. Tất cả điều này cho thấy sự thiếu vắng trao đổi, lòng khoan dung cho bản thân và người thân.
Những tác động của đời sống công nghiệp, sự hối hả, tất bật, thiếu bữa cơm chung trong gia đình, người gìn giữ giềng mối gia đình đã không còn hay vai trò đã mờ nhạt… cùng với những thay đổi về các giá trị văn hoá đã ảnh hưởng đến tính cách và hành vi của nhiều người.
Các gia đình ngày xưa có thể sống chung nhiều thế hệ trong cùng một nhà nhưng ngày nay khi đủ sức tự lập con cái thường ra ở riêng để có cuộc sống tự do. Gia đình có con du học hay sinh sống ở nước ngoài, thì quan hệ tình cảm càng ngày càng nhạt vì sự xa cách.
Những năm Covid 19, nhiều thành viên buộc chung sống như một cộng nghiệp nên có những va chạm thường xuyên về quan điểm, quyền lợi, tiền bạc và những tranh chấp quá đà đã gây nên bi kịch. Cuộc sống gia đình có thể là thiên đường, cũng có thể là địa ngục. Tấn kịch trong gia đình có lẽ là tấn kịch đáng kinh sợ nhất trong kiếp sống của loài người.
Ở Ý, một người chồng khi vợ cương quyết ly dị, đã giết chết hai đứa trẻ sinh đôi 12 tuổi, sau đó tự kết liễu đời mình. Trước đó anh ấy đã gửi email nói với vợ “Cô sẽ không còn bao giờ gặp được các con đâu!”
Ở Đức tại thành phố Duesseldorf một người phụ nữ vì bất hoà với chồng đã giết chết 5 đứa con rồi sau đó lao mình vào xe lửa tự sát.
Còn ở Hà Tĩnh, do mâu thuẫn về tiền bạc, một phụ nữ bị chồng dùng dao phóng xuyên lưng.
Khi nghe kêu cứu, hàng xóm chạy sang thì thấy bà vợ đang vòng tay ôm con dao. Một người dân đã chở bà đến bệnh viện bằng xe máy trong tình trạng con dao vẫn găm trên cơ thể!
Nhưng không phải chuyện vợ chồng nào cũng phát sinh bi kịch. Một ông chồng 80 tuổi sáng nào cũng mang bữa ăn sáng cho vợ trong viện dưỡng lão. Khi mọi người hỏi thì ông ta trả lời là bà vợ bị chứng Alzheimer.
Vậy bà ấy có biết là ông mang bữa sáng cho bà không?” “Không, bà ấy không nhớ… Thậm chí là từ 5 năm bà còn không biết tôi là ai.” “Bà không còn nhận ra thế mà ông vẫn cứ mang đồ ăn sao?” Người đàn ông mỉm cười: “Bà không biết tôi, nhưng tôi biết bà ấy là ai!”
Đó là một tình yêu lớn mà không đòi nhận lại chút gì!
Thử hỏi con người ta phải trải qua biết bao nhiêu bão giông tuổi trẻ, để đổi lấy một cái nắm tay hay âu yếm nhìn nhau lúc về già?
Gần đây, chỉ trong thời gian ngắn 3 vụ việc tàn độc xảy ra trong gia đình khiến mọi người chấn động. Nơi này, tình nhân của người chồng hành hạ với chủ định giết con riêng của anh ta. Nơi kia, tình nhân của người mẹ đã đóng 9 cái đinh vào đầu đứa con riêng của cô mới 3 tuổi… Ở một nơi khác, một đứa con gái tuổi học trò rắp tâm đầu độc giết chết cha mình chỉ vì bị mắng chửi…
Phải lý giải ra sao về những hiện tượng và tội ác tày trời? Có lẽ “mọi ngôn từ cũng bất lực” và ngọn bút cũng phải chùng tay.
Trước những vấn nạn này, liệu quan niệm dòng máu, ADN… có còn đứng vững? Khoa học tiến bộ, người ta sống thọ hơn nhưng người già bị bỏ rơi càng lúc càng nhiều!
Một căn hộ trong chung cư ở Ba Lan bị rò rỉ nước. Nhiều lần bấm chuông không có ai mở cửa nên có người đã gọi cảnh sát tới phá khóa. Không có ai ở bên trong, trừ một bộ xương khô nằm chết tự nhiên, hơn 5 năm ở trên giường. Đó là cụ bà 80 tuổi, con cháu bỏ rơi. Bà sống đơn độc nên hàng xóm không ai phát hiện sự vắng mặt. Các cơ quan bảo hiểm xã hội vẫn trả lương hưu còn các hóa đơn định kỳ được bà đặt chế độ thanh toán tự động nên không ai để ý chuyện “bất thường.” Bên cạnh sự vô tâm còn có sự thờ ơ của xã hội!
Còn đây là tâm sự của một bà cụ khác bị ép vào viện dưỡng lão: “Tôi 82 tuổi, 4 đứa con, 11 đứa cháu, 2 đứa chắt và một căn phòng 12 mét vuông. Tôi có những người dọn dẹp phòng, nấu ăn hay kiểm tra huyết áp và cân nặng… nhưng không có những thứ tôi yêu: tiếng cười của các cháu, được ôm hôn hay nhìn chúng lớn. Có vài cháu đến thăm tôi mỗi 2 tuần; những đứa khác mỗi ba bốn tháng hay có đứa không đến bao giờ.
Trên thực tế có nhiều đứa con tranh cãi về tài sản của cha mẹ chứ mấy ai quan tâm đến việc nuôi dưỡng cha mẹ khi về già hay bệnh tật, lúc họ cần một chút ấm lòng trước khi trở về với cát bụi.
Nếu có quan hệ huyết thống mà không quan tâm giúp đỡ nhau thì ruột thịt cũng chưa hẳn là gia đình, có khi còn đối xử với nhau tàn ác, tệ hơn với người dưng hay thù địch và biến thành tội phạm.
Có lẽ, cuộc đời thật bao hàm nhiều bất trắc, bóng tối và bụi bặm bất ngờ hơn ta tưởng.
Tập truyện có tựa chung là Gia đình, những nỗi đau ngọt ngào, trong đó có cả tình yêu và nước mắt, vì gia đình là nơi êm ấm nhất nhưng nếu thiếu “tình” thì sẽ mang lại cho ta rất nhiều đau khổ. Nhưng Tình yêu không phải là một sản phẩm được đóng gói để sẵn sàng được sử dụng. Nó được giao cho chúng ta chăm sóc, nó cần những nổ lực liên tục để được tái tạo và hồi sinh mỗi ngày.
Khi tôi nói về cái tựa chung cho tập truyện thì Elena mỉm cười “Ở Ý nhiều năm trước người ta thường nói “Hãy đi đến nơi nào trái tim mách bảo,” nhưng em thích nói “Sống ở đâu cũng phải mang theo trái tim” hơn. Đây có lẽ là quan niệm sống của người bạn đời bên tôi. Sống vui vẻ và luôn quan tâm đến người khác.
Sống ở đời, không ai có thể cạn tình cạn nghĩa, nhất là với những người thân. Nếu chúng ta bớt sân si, bớt nghiệt ngã, biết lấy yêu thương và lòng tử tế bao dung mà cư xử với nhau thì mới có thể có một gia đình êm ấm.
Tình nghĩa nhiều khi cũng trói buộc và làm khó dễ con người. Nhưng nếu hoàn toàn xoá bỏ, nó sẽ gây cho ta một nỗi day dứt, băn khoăn không thể nào nguôi.
(Milano 1-2022 – vanchuongviet)
Monday, November 17, 2025
Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long
Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Hoạt động của con người tác động nhiều hơn biến đổi khí hậu
https://www.rfi.fr/vi/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD/t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-x%C3%A3-h%E1%BB%99i/20251112-x%C3%A2m-nh%E1%BA%ADp-m%E1%BA%B7n-%E1%BB%9F-%C4%91%E1%BB%93ng-b%E1%BA%B1ng-s%C3%B4ng-c%E1%BB%ADu-long-ho%E1%BA%A1t-%C4%91%E1%BB%99ng-c%E1%BB%A7a-con-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-t%C3%A1c-%C4%91%E1%BB%99ng-nhi%E1%BB%81u-h%C6%A1n-bi%E1%BA%BFn-%C4%91%E1%BB%95i-kh%C3%AD-h%E1%BA%ADu
Đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), nằm ở vùng cực nam Việt Nam, cũng là vùng sản xuất nông nghiệp then chốt của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thế nhưng, trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn ngày càng phức tạp, không chỉ tác động đến đời sống con người và sinh thái, mà còn ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, khiến nhà nông phải tìm cách chuyển đổi để thích nghi với tình hình.
Người nông dân trên cánh đồng lúa khô hạn giữa đợt nắng nóng kéo dài ở tỉnh Cà Mau, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Ảnh ngày 23/02/2024. AFP - TAN DIEN
Nhưng đâu là những nguyên nhân và thực trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long ? Để hiểu thêm tình hình, RFI có cuộc trao đổi với tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long.
RFI tiếng Việt : Đâu là nguyên nhân gây ra mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là đối với sản xuất lúa, người ta chia làm hai loại mặn. Thứ nhất là mặn do nước biển tràn vào. Cái mặn này thường xuất hiện trong mùa khô, khi mà nước ngọt từ sông Cửu Long hoặc lượng nước mưa không đủ để đẩy nước mặn, thì mặn xâm nhập từ biển vào.
Loại mặn thứ hai là mặn từ trong đất : chúng ta hình dung là phù sa của sông Mekong đi ra ngoài biển biển thì biến dần thành phù sa mặn. Khi phù sa này quay bồi tụ thì hình thành đất mặn. Đó là đất đó đã có sẵn muối trong đó rồi. Nói nôm na, chúng ta phân biệt làm hai loại mặn, mặn do nước biển và mặn có sẵn từ trong đất.
RFI tiếng Việt : Người xưa đã thích ứng với chuyện mặn này như thế nào ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người xưa, khi đến định cư ở đồng bằng sông Cửu Long này, vùng Duyên Hải sát với phía biển, người ta chia chuyện sử dụng nước làm bốn loại. Thứ nhất là loại nước để ăn uống, đa phần người ta dựa vào nước mưa. Dễ thấy nhất khi xuống những vùng như thế này là thấy là người dân trữ nước mưa trong lu để dọc theo nhà. Mình có thể đếm số lu là có thể đoán biết là trong nhà đó có mấy người.
Cái nước thứ hai là nước sinh hoạt, ví dụ để người ta tắm giặt … Phổ biến nhất là khi xây nhà, người ta đào cái ao kế bên nhà để trữ nước ngọt, thường gọi là ao rửa ăn.
Và trong một vài trường hợp thì người ta đào những cái ao này xa trong ruộng, gọi là những cái đìa, hoặc là người ta đào những cái ao lớn để cho cả cộng đồng sử dụng, như những cái ao chùa hoặc là những cái ao ở những nơi tập thể. Hiện nay một số nơi còn biệt danh đó, ví như ao Bà Hom ở Trà Vinh. Đó là những cái ao rất lớn để giữ nước ngọt cho cả cộng đồng xài.
Loại nước thứ ba gọi là nước sản xuất. Người ta dựa vào chất lượng nước và quyết định loại hình sản xuất. Ví dụ như nơi nào mà nước nó quá mặn thì người ta sử dụng để sản xuất muối. Còn nơi nào mà nước mặn trung bình hoặc là mặn vừa thì người ta để nuôi tôm, nuôi cua. Còn nơi nào mà nước không mặn thì người ta mới trồng lúa hoặc người ta kết hợp với nuôi cá đồng.
Cái cuối cùng là nước sinh thái, người ta giữ để cho cây cối xanh tươi, để cho cá tép có chỗ sống, và để cho ghe xuồng có thể đi lại được trên kinh rạch, làm cho không khí mát mẻ.
Tôi muốn lưu ý là người xưa cũng đã từng ngăn mặn. Nhưng mà người ta chỉ ngăn mặn từ ở dưới sông tràn lên trên ruộng thôi, chứ không ai ngăn mặn trên những con sông hay con rạch, bởi vì ông bà xưa đã từng dặn là có 2 điều rất là tội lỗi, không nên làm : đó là ngăn sông và cấm chợ.
RFI tiếng Việt : Tình hình mặn năm 2025 ra sao và theo ông xu thế tương lai thế nào ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về tình hình mặn hiện nay đó thì cái mặn xâm nhập từ biển vào, phần lớn được kiểm soát bởi các công trình như là đê ngăn mặn hoặc là cống đập ngăn mặn. Nhưng mà thực sự thì cái mặn mà không kiểm soát được là cái mặn từ trong đất đi ra, bởi vì do điều kiện địa chất hình thành vùng đất của mình, tầng đất ở bên dưới đã nhiễm mặn rồi. Thành thử khi mà thiếu cái nguồn nước ngọt bổ sung để rửa mặn hay là ém mặn từ bên trên thì cái mặn từ các cái tầng dưới sẽ mau dẫn lên và làm cho mặn trên mặt đất.
Xu hướng mặn từ trong đất xì ra càng ngày càng tăng, bởi vì biến đổi khí hậu làm cho lượng nước ngọt càng ngày càng giảm. Về điều này, nhìn chung là theo xu hướng hiện nay cũng như là trong tương lai, diện tích của đất bị ảnh hưởng bởi mặn chỉ có tăng thôi chứ không có giảm.
RFI tiếng Việt : Tình hình cụ thể năm nay so với, ví dụ như năm 2023 hay 2024, cái cái mặn này có tăng lên nhiều không ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra thì cái mặn đã có sẵn trong nước và trong đất. Nó là tự nhiên. Vấn đề khi là đánh giá là năm nay mặn nhiều hơn năm rồi hay là mặn ít hơn năm rồi thì chủ yếu là người ta dựa vào diện tích canh tác bị thiệt hại. Mà ở đây cụ thể là diện tích canh tác lúa. Cái đỉnh mà gọi là bị xâm nhập mặn trầm trọng nhất là năm 2015 và 2016, mặn xâm nhập rất là sâu vào trong đất liền và ảnh hưởng rất nhiều đến diện tích trồng lúa.
Có 2 nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là mặn xâm nhập sớm, người ta trở tay không kịp. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là người ta đã lấn, người ta đã đưa cây trồng vật nuôi không phù hợp với nước mặn, mở rộng diện tích ra gần biển quá nhiều trong những năm trước. Và như vậy khi mặn xâm nhập thì sẽ gây ra diện tích thiệt hại càng lớn.
Và theo hướng đó thì những năm sau 2016 đến nay, cũng có những năm như 2020, 2022 mặn cũng khá nhiều nhưng mà thiệt hại, chủ yếu là thiệt hại trên diện tích canh tác lúa, không tăng bởi vì người dân đã có kinh nghiệm. Có nghĩa là những diện tích này không còn phù hợp để cho trồng lúa nữa và người ta giảm diện tích lúa cũng như là giảm mùa và vụ xuống. Thay vì hồi xưa trồng 2-3 vụ thì bây giờ người ta chỉ trồng một vụ thôi, do đó né được cái mặn. Hay nói nôm na là người ta có kinh nghiệm để tránh mặn.
RFI tiếng Việt : Đâu là những nguyên nhân chính làm cho mặn có thể trở nên trầm trọng hơn? Liệu biến đổi khí hậu có góp phần vào nạn này không ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về nguyên nhân làm cho mặn có thể trầm trọng hơn thì chúng ta có thể liệt kê ra 4 nhóm nguyên nhân chính. Thế nhưng, nguyên nhân đầu tiên vẫn là kiểu sử dụng đất của người nông dân, có nghĩa là người nông dân đã chọn cây trồng vật nuôi đó có tính tới chuyện cây trồng vật nuôi đó có chịu mặn được hay không ? Và quy trình quản lý cây trồng vật nuôi đó có giúp ngăn chặn được tác hại của mặn hay không?
Cái thứ hai là chuyện vận hành hệ thống công trình như là đê điều cống đập. Hiện nay cách vận hành đó còn manh mún và chưa đồng bộ, thành thử thí dụ một nơi này thì đóng cống để mà ngăn nước mặn, nhưng mà nơi kia thì lại mở cống, thành thử mặn nó sẽ xâm nhập phía sau, phía trước. Đó là vấn đề thứ hai. Vấn đề thứ ba là nguồn nước ngọt từ sông Mekong. Chúng ta biết là nguồn nước ngọt ở thượng nguồn bây giờ đang bị khai phá rất là nhiều cho sản xuất, nên đôi khi trong mùa nắng thì mình thiếu nguồn nước ngọt để đẩy nước mặn xâm nhập vào đồng bằng đi ra ngoài xa.
Và cuối cùng là biến đổi khí hậu, ở đây cụ thể là sự phân bố thất thường lượng nước mưa. Nếu lượng mưa phân bố thất thường, thì tại những vùng chủ yếu rửa mặn từ nước mưa, thì người ta không có đủ nước để rửa cho đất, những nơi đó là ảnh hưởng mặn càng ngày càng tăng nghiêm trọng hơn.
RFI tiếng Việt : Mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu có phải là một nguyên nhân đẩy nước mặn vào sâu trong đồng bằng sông Cửu Long hơn ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra nếu nói về chuyện mực nước biển dâng, thì tác động không nhiều bằng mà chuyện lún sụt mặt đất ở trong đất liền, bởi vì vận tốc sụt lún mặt đất ở trong đất liền hiện nay trung cũng khoảng chừng 1-2cm/năm, đặc biệt là có những vùng nhiều hơn, trong khi mực nước biển dâng chỉ có không phẩy mấy cm trong vòng 2-3 năm. Nên thực ra mực nước biển dâng có góp phần gây xâm nhập mặn, nhưng đó là một tiến trình lâu dài, chứ không xuất hiện từng năm, mà vận tốc tăng cũng rất chậm, trong khi sụt lún mặt đất của chúng ta trầm trọng hơn vì tốc độ nhanh hơn, nên làm nước mặn xâm nhập vô đất liền nhiều hơn.
RFI tiếng Việt : Vậy sụt lún mặt đất có phải phần nào cũng là do việc người dân hút mạch nước ngầm lên, ví dụ để sử dụng phục vụ tưới tiêu sản xuất ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Sụt lún mặt đất thì chúng ta phải xét trên trên nhiều góc độ. Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là đồng bằng của chúng ta hình thành được là do quá trình bồi lấn phù sa nhiều hơn là quá trình xói lở phù sa, nên mới tạo ra được mặt đất. Nếu quá trình bồi lấn phù sa đó nhỏ hơn quá trình sạt lở phù sa thì mặt đất của chúng ta tự nó cũng đã thấp xuống mỗi năm.
Tôi cho rằng chuyện thiếu hụt phù sa bù đất cho những vùng đất hiện nay là yếu tố chính, bởi vì nhiều lý do liên quan tới kiểu sử dụng đất của người dân. Ví dụ như hồi trước có nhiều vùng qua mùa nước lũ người ta còn mở đê để lấy nước, phù sa còn bồi lấn trên đồng. Còn hiện nay, người ta quản lý nước chặt chẽ để canh tác suốt năm, phù sa không có cơ hội đi vào đồng ruộng, nên đồng ruộng không được bồi lấn tự nhiên lên, do đó mặt đất càng ngày càng sụt xuống.
Cái thứ hai là chuyện trưởng thành của loại đất. Đất ở đồng bằng của chúng ta nó thuộc về đất non trẻ và đối với một đất non trẻ này thì tự nó khi mà nó săn chắc lại thì nó co ngót lại và cũng tạo ra một độ sụt lún tự nhiên.
Và nguyên nhân thứ ba thì chắc chắn là do bây giờ người ta lấy quá nhiều nước ngầm. Ngày xưa người ta chỉ lấy để làm nước sinh hoạt và ăn uống trong giai đoạn thiếu nước thôi, còn ngày nay người ta lấy nước ngầm để phục vụ cho sản xuất nữa, thành thử lượng nước ngầm khai thác mỗi nơi phục vụ cho sản xuất rất lớn, gấp mấy chục lần lượng nước cần thiết để sinh hoạt. Đây là cũng là nguyên nhân làm cho mặt đất sụt lún rất nhanh.
RFI tiếng Việt : Trường hợp mặn của đồng bằng sông Cửu Long thì có phải là cá biệt trên thế giới hay không ? Hay cũng có một số khu vực trên thế giới cũng có tình trạng giống như đồng bằng sông Cửu Long ? Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với những khu vực đó không ?
Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật sự mà nói tất cả đồng bằng trên thế giới này đều có những thách thức tương tự như đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng mà đồng bằng sông Cửu Long thì được xếp một trong 3 đồng bằng chịu tổn thương nhiều nhất. Thành thử những kinh nghiệm, bài học mà chúng ta có được hoàn toàn có thể chia sẻ cho những đồng bằng khác, bởi vì mức độ nghiêm trọng của họ không nhiều như mình.
Đồng bằng sông Cửu Long bị áp lực từ tự nhiên cho đến chuyện phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Lý do thứ nhất là sông Cửu Long chảy qua 6 nước : qua Trung Quốc, Miến Điện, rồi Lào, Thái Lan, Campuchia rồi cuối cùng mới đi đến Việt Nam. Đồng bằng là phần mà sự thay đổi phụ thuộc hoàn toàn vào lưu vực của con sông. Tất cả những cái gì xảy ra trên lưu vực của con sông đó thì đều ảnh hưởng đến đồng bằng này.
Chuyện các quốc gia này ngồi lại để thương lượng về các chuyện, ví dụ sử dụng nguồn nước thế nào cho hợp lý, đều rất khó khăn. Nó không có đơn giản như là đồng bằng sông Mississippi của Hoa Kỳ, chảy qua nhiều bang, nhưng đều nằm trong một quốc gia, thành thử ra họ ngồi lại với nhau tương đối dễ dàng hơn.
Nhưng riêng về chuyện xâm nhập mặn thì thật sự mà nói là có nhiều quốc gia hiện nay cái mặn không đơn thuần chỉ là mặn trong nước biển hay là trong đất thôi, mà đôi khi đó còn là cái mặn do những khu công nghiệp hoặc là nơi sản xuất, đặc biệt là những chỗ luyện kim … Cái mặn này tạo ra một loại muối khác, không phải là muối mình ăn được như muối biển tự nhiên, mà đây là cái mặn từ nguồn nước thải công nghiệp sản xuất. Cái đó nó tác động, làm đất bị nhiễm mặn và cái mặn đó mới là nguy hiểm. Cải tạo cái mặn đó mới khó.
RFI tiếng Việt chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni đã tham gia chương trình !
Thùy Dương
Sunday, November 16, 2025
AI Deepfakes
https://www.citigroup.com/rcs/citigpa/storage/public/Citi_Institute_Report_AI_Deepfakes.pdf
AI Deepfakes
Key Takeaways
AI Deepfakes | When Seeing and Hearing Can’t be Trusted
© 2025 Citigroup3
AI Deepfakes
Deepfakes are the new face of deception.They are voices, images, videos or even text created by artificial intelligence (AI) that look and sound indistinguishably real. Once mere entertainment novelties, they have evolved into powerful tools of manipulation and fraud, marking a new era in financial crime. This wave of AI-driven deception is now infiltrating the workplace and recruitment processes. Some estimates suggest that by 2028, one in four candidate profiles worldwide could be fake.4 Meanwhile, one technology company the Citi Institute spoke with at Money 20/20 USA (October 2025) told us that 50% of job applications it receives are fake. Identity deception is accelerating. AIimprovementsenable deepfakes to mimic real people and make it difficult to detect synthetic ones. The rise of
video-based hiring and remote work, especially in the technology and web3 sectors, further amplifies the risk. As recruitment interviews shift to virtual environments, imposters with fake credentials may be able to secure jobs. The danger lies not just in what they fake, but in how long they can stay undetected, infiltrating sensitive systems and installing malware or ransomware.
State-sponsored Deepfake Employees
A striking example is the surge innstate-sponsored actors using deepfake technology to infiltrate global companies. These candidates are either completely AI-generated for have their appearance significantly altered using deepfake technology. North Korea has emerged as a hotspot,with its operatives often posing as IT professionals aiming to infiltrate foreign
companies using false identities. Anestimated 320 companies have been infiltrated by North Korean IT workers in the past year.5,6 The deepfake employee scam tends to be
a long-term campaign involving multiple individuals across locations including
overseas operators (impersonators),onshore collaborators (mules), brokers,and money movement handlers. A typical operation includes:
• Targeting remote roles with limited in-person onboarding
• Creating synthetic identities with fabricated CVs, social profiles, and
realistic headshots or videos
• Participating in deepfake interviews using voice or video cloning, providing
fabricated work history and personal references
• Establishing an onshore foothold through a rented address or a local
collaborator for administrative purposes and deliveries
• Having company laptops or authenticators mailed to the
onshore address
• Connecting remotely to company systems using the provided credentials and hardware, often with the help from the collaborator
• Co-ordinating multi-location teams to scale the operation. Once candidates gain access to the company ecosystem, the scam goes beyond simple deception. Potential impacts include the infiltration of sensitive systems and leakage of trade secrets, theft of intellectual property and customer data, data breaches and ransomware attacks, generation of foreign currency revenues for the sponsoring regime, and the erosion
of trust and reputation. For one job posting alone, we received over 800 applications in a matter of days.
“When we conducted a deeper analysis of 300 candidate profiles, over one-third were outright fraudulent. These weren’t just candidates exaggerating their experience –
these were entirely fabricated identities, many leveraging AI-generated resumes,
manipulated credentials, and, most concerning, deepfake video interviews.” Vijay Balasubramaniyan, Co-Founder and CEO, Pindrop Security
AI Deepfakes | When Seeing and Hearing Can’t be Trusted
© 2025 Citigroup4
This is not just a problem for large corporates. Small and mid-sized businesses, which often lack the resources to detect sophisticated hiring fraud, are particularly vulnerable.Corporates often fail to conductthorough verification of remote hires and contractors. Standard background checks often rely on self-reported information or basic identity verification,which can be manipulated through deepfake visuals, fabricated credentials,or stolen digital identities.Deepfakes are not confined to job applicants. They also impact senior leadership, customers, and suppliers. In the financial sector, this could extend to synthetic identity creation, fraudulent transaction authorization, and automated money transfer scams.
Financial Deepfake Fraud
There have been several single-event,high-impact financial frauds where deepfakes impersonated trusted executives to authorize or redirect payments. Unlike systemic infiltration cases, the objective
here is immediate financial gain rather than long-term access.
In a widely reported case in 2024, a UK multinational became the targetof a stri kingly sophisticated fraud.An employee of its Hong Kong office received what appeared to be a video callfrom the chief financial officer and other senior leaders, urging urgent money transfers for a confidential transaction.7
In reality, the voices and images of the executives had been deepfaked and every participant on the call except the employee was a synthetic representation. The employee proceeded to make 15 separate transfers totalling around HKD200 million ($25 million) to an offshore account before the deception was uncovered.
Several such incidences have been reported in recent years, with potentially more going unreported. Such incidents illustrate the danger of deepfakes,rendering traditional verification controls such as voice recognition and visual confirmation inadequate. It also highlights the importance of continuous education to understand the common techniques that fraudsters use to enable the early detection of fakes.More importantly, ongoing and proactive education is key for law enforcement to stay ahead of the perpetrators.
Audio Spoofs to Full-Motion
Real Time Video
Deepfake fraud attempts are multiplying fast. 2024 saw a marked increase indeep fake-related fraud, accounting for nearly 4.7% of all fraud attempts,up from 0.10% in 2022.8.Deepfake fraud attempts vary by sector:
in consumer credit they represent nearly
12% of all fraud, followed by real estate
(about 8%) and payments (5%). By
contrast, fewer deepfake attempts
occur where the perceived gains are
lower, such as education.9
Up to 8 million deepfakes are expected
to be shared online by the end of 2025,
up from 500,000 in 2023, suggesting a
doubling every six months.10 Easy access
to powerful AI tools and vast amounts
of data are likely contributing factors.
A survey of over 100 fraud executives
from global financial institutions over
2Q2025-3Q2025 suggest greater
anticipation of increased fraud losses
in banking payments over the next
three years, especially for the U.S.11
The increase is attributed to growth
in AI-powered deepfake attacks
and synthetic identity fraud.
Source: Signicat VideoID data, full-year 2021–2024, from “The Battle in the Dark”
2022
0.10%
2023
2.52%
2024
4.70%
Figure 1. Deepfake fraud as percentage of all fraud attempts
AI Deepfakes | When Seeing and Hearing Can’t be Trusted
© 2025 Citigroup5
Voice deepfakes: Voice deepfakes are
synthetic audio created to sound like
the target individual. They are created
by training a model on samples of a
person’s voice and then providing a
text to generate the fake speech.
Combining large language models (LLMs)
with text-to-speech engines can enable
voice bots to respond in real time. The
LLM generates real-time answers to
questions, and the text-to-speech
engine vocalizes them, even conveying
emotions such as empathy or urgency.
Video deepfakes: These extend the
threat to full visual manipulation.
Initially, video deepfakes were
pre-recorded content that was
manipulated before distribution.
Now advanced deepfakes can manipulate
someone’s likeness using generative
adversarial networks and other machine
learning techniques designed to create
lifelike synthetic media.
Attackers often use publicly available
data like photos, videos, and audio from
social media websites or corporate filings
to build the model. During a live call, the
model overlays the synthetic likeness in
real time, replicating facial cues, voice,
and gestures.
Hybrid deepfakes: Many live deepfake
scams use a hybrid strategy, combining
multiple types of deepfakes (including
voice and video), with traditional
social engineering tactics, fabricated
documents, and credential theft.
Instead of a one-off scam, such
deepfakes are often associated with
long-term planned infiltration campaigns.
They are designed to build trust, before
compromising systems or extracting
sensitive data.
Detecting Deepfakes is
Getting Harder
Detecting deepfakes is getting harder,
especially audio. Early versions often
contained noticeable pauses as the
operator typed responses. Recent
iterations eliminate these flaws,
producing seamless and natural-
sounding speech.
The number of generative AI (GenAI)
systems capable of cloning voice and
video has surged, rising from roughly
100-150 tracked systems last year to
more than 500 today.13 Much of this
growth is driven by open-source tools
that are easier to access, cheaper
to run, and require less data to
create highly convincing fakes.
There are cases of bots simulating
empathy. For example, a bot may
remark during an interaction “It must
have been a long day. So how are you
holding up?” This carefully engineered
scripted empathy, helps increase
credibility and makes the interaction
appear more convincing.
In contrast, video deepfakes still
show some tell-tale flaws such as
blurriness or unnatural pixelation.
But the technology is evolving fast.
Figure 2. Key forces behind the growing speed and sophistication of speech-based deepfakes12
Use of automated bots
Previously, speech generation tools
had a 4-7 second delay between input
and synthetic voice output. Today,
LLMs have reduced that delay to near
real-time. This makes it increasingly
difficult to distinguish synthetic
voices from real ones.
Emotional-sounding AI
Advances in synthetic speech
have enabled text-to-speech
voices to convey emotions like joy,
anger, empathy, and sadness. AI
models can now learn and imitate
emotional tones from human
speech, making these synthetic
voices even more convincing.
Real-time voice conversion
Companies have created tools for
real-time voice conversion, allowing
users to change pitch, timbre, and
accent instantly. While this technology
benefits voice dubbing, gaming, and
content creation, it also makes it
easier for fraudsters to evade voice
recognition systems by masking
their voice.
Source: Pindrop 2025 Voice Intelligence and Security Report, Citi Institute
6 © 2025 Citigroup
AI Deepfakes | When Seeing and Hearing Can’t be Trusted
How are Corporates Responding?
The global annual cost of cybercrime is
estimated to reach $10.5 trillion by 2025,
up from $3 trillion in 2015.14 Old school
fraud using one-time passwords (OTPs)
and phishing continue to exist, but
deepfakes are seeing a rapid increase.
Corporates are responding in different
ways. Many firms are prioritizing the
detection of C-suite impersonation
due to the high-profile nature of these
attacks targeting CEOs and CFOs. Others
are investing in tools to safeguard video
communications more broadly.
As fraud grows more sophisticated,
traditional identity checks such as
document scans or liveness tests are
no longer sufficient. Trust cannot be
established through a single interaction.
Verification must evolve into
multi-layered digital constructs that
combine biometrics, behavior and
device data, and contextual cues.
The notion of continuous identity
is becoming crucial.
Zero-Trust Communication
is Essential
In a GenAI-powered world, trust can
no longer be assumed, it must be
continuously verified.
Every interaction, whether from inside
or outside the network, must be verified
through multiple layers of identity,
device, and behavioural validation.
The principle must be “Never trust,
always verify”.
While corporates are redesigning call
centres for zero trust, communication
channels like phone calls and emails
remain dangerously outdated. Many
corporate systems still rely on voice
recognition, caller ID, and email
domain as proof of authenticity.
The next frontier is zero-trust
communication, where every
conversation and message undergo
real-time authentication using biometric
voiceprints, behavioral analytics, and
device-level identity tokens. Likewise,
email security must move towards
cryptographic message signing,
AI-based anomaly detection,
and intent verification.
Fighting AI with AI
The way financial services combat fraud
will fundamentally change as criminals
adopt AI to perpetrate scams. Deepfakes’
ability to circumvent traditional defenses
illustrate this shift. While the pace of
AI-driven fraud is alarming, the fight
against deepfakes is winnable.
The same AI technology that enables
fraud, can also be used against it.
Advanced AI agents are now capable
of mapping scam networks, flagging
manipulated audio and video, and
intercepting social engineering
attempts with increasing precision.
Building AI-driven defense systems
is becoming as critical to financial
security as cybersecurity firewalls.
As AI agents evolve and operate
autonomously, the risks escalate.
Bad actors can deploy agents at scale
to impersonate senior executives,
manipulate employees, or mislead
customers. This raises the bar for
verification. Financial institutions
must move beyond validating users
to also verifying the identity, intent,
and provenance of AI agents.
In Citi GPS: Agentic AI we highlight
several examples of how AI is being
used to counter fraud. One leading global
bank, for instance, integrated real-time
deepfake detection into its call center
infrastructure. The detection process
happens seamlessly without introducing
latency or disrupting the natural flow
of conversation. The AI tool analyses
the audio stream and flags signs of
synthetic manipulation.
The industry is also beginning to build
frameworks such as Know Your Agent
(KYA), mirroring the KYC standard, to
safeguard trust in digital interactions.
AI Deepfakes | When Seeing and Hearing Can’t be Trusted
© 2025 Citigroup7
Endnotes
1 Gartner, Gartner Survey Shows Just 26% of Job Applicants Trust AI Will Fairly Evaluate Them,
31 July 2025.
2 Fortune, North Korean IT Worker Infiltrations Exploded 220% Over the Past 12 months, with GenAI
Weaponized at Every Stage of the Hiring Process, 04 August 2025; Crowdstrike, Threat Hunting
Report, 2025.
3 eSentire, Cybercrime to Cost the World $9.5 Trillion USD Annually in 2024.
4 Gartner, Gartner Survey Shows Just 26% of Job Applicants Trust AI Will Fairly Evaluate Them,
31 July 2025.
5 Fortune, North Korean IT Worker Infiltrations Exploded 220% Over the Past 12 months, with
GenAI Weaponized at Every Stage of the Hiring Process, 04 August 2025.
6 Crowdstrike, Threat Hunting Report, 2025.
7 CNN Business, British Engineering Giant Arup Revealed as $25 million Deepfake Scam Victim,
17 May 2024.
8 Signicat, The Battle in the Dark, October 2025.
9 Signicat, The Battle in the Dark, October 2025.
10 UK Government (UK.Gov), Innovating to Detect Deepfakes and Protect
the Public, 05 February 2025.
11 Datos Insights, Five Forces Disrupting Global Fraud Prevention by 2030, October 2025.
12 Pindrop 2025 Voice Intelligence and Security Report.
13 Citi Institute Future of Finance Forum 2025 Video, Deep Dive into Deepfakes, 09 July 2025.
14 eSentire, Cybercrime to Cost the World $9.5 Trillion USD Annually in 2024.
Authors
Contributors
Vijay Balasubramaniyan
Pindrop Security
Sophia Bantanidis
Future of Finance,
Citi Institute
sophia.bantanidis@citi.com
Kaiwan Master
Future of Finance,
Citi Institute
kaiwan.hoshang.master@citi.com
Ronak Shah
Future of Finance,
Citi Institute
ronak.sharad.shah@citi.com
Prag Sharma
Future of Finance,
Citi Institute
prag.sharma@citi.com
Ronit Ghose
Global Head, Future
of Finance, Citi Institute
ronit.ghose@citi.com
Nghĩ về giá trị Mỹ thuật Đông Dương
https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/nghi-ve-gia-tri-my-thuat-dong-duong-1
Nghĩ về giá trị Mỹ thuật Đông Dương
Đỗ Phấn
Trước hết cần khẳng định ngay rằng 17 khóa tuyển sinh của Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương (CĐMTĐD) từ 1925 đến 1945 là một dấu ấn lịch sử có tính khai sáng cho hội họa Việt Nam. Không có những người thầy và học trò ấy ắt hẳn hội họa Việt vẫn “bờ tre khóm lúa” như vài trăm năm trước. Thậm chí trước đó người Việt còn không có khái niệm hội họa. Chỉ có một vài làng bên Kinh Bắc, Huế và Hà Nội đang lưu hành một thứ mỹ thuật dân gian là tranh khắc gỗ. Tranh khắc gỗ in hàng loạt có vẻ như bắt nguồn từ việc khắc và in văn tự cùng tranh minh họa nhà Phật. Dấu tích của nó còn khá nhiều trong các bản khắc chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Yên Dũng - Bắc Giang từ thời Trần.
Niềm tự hào dân tộc
Không còn nghi ngờ gì nữa khi ta nói rằng Trường CĐMTĐD là cái nôi đầu tiên sản sinh và nuôi dưỡng hội họa Việt Nam. Ở đó có các bậc thầy người Pháp thuộc trường phái hậu ấn tượng. Ở đó có các lớp học sinh đầu tiên học theo hội họa hàn lâm châu Âu. Vài người giỏi nghề đã nổi tiếng cả ở bên Pháp ngay từ lúc còn đi học. Tranh của họ được mang đi triển lãm và bán đấu giá ở những hội chợ lớn ngay tại Paris thủ đô nước Pháp. Tất nhiên không loại trừ một khả năng là khán giả châu Âu thời ấy có một chút định kiến gì đó trong con mắt thực dân của mình. Họ yêu quí và đề cao những người được chính họ đào tạo thì cũng tựa như đề cao chính mình. Chẳng có gì lạ cả.
Thế nhưng với người Việt, các họa sĩ hàn lâm những thế hệ đầu tiên ấy là một niềm tự hào có thật. Một khởi đầu cho cả một nền mỹ thuật sau này. Không tự hào sao được khi mà những tác phẩm tranh khắc gỗ trước đó của người Việt là thứ chỉ được bày bán ở những chợ quê hoặc phố trong ngày tết. Nó chỉ là một món hàng giải trí các bà các chị đi chợ mua thêm thắt vào cho có không khí tết mà thôi. Nhiều thế kỉ qua đi mà Việt Nam chưa có tên tuổi một họa sĩ nào được ghi chép lại. Giờ đây, tranh của các họa sĩ có đầy đủ tên tuổi và học vấn đã bắt đầu hình thành hẳn một thị trường trao đổi bán mua nhộn nhịp. Tất nhiên khán giả Việt lúc ấy vẫn chỉ gói gọn trong thành phần trí thức. Một vài thương nhân quan tâm đến hội họa cũng không hẳn vì lí do hiểu biết. Bài toán của họ luôn là một ẩn số cho đến tận bây giờ.
Trường CĐMTĐD với 17 khoá tuyển sinh mỗi khoá khoảng mươi người. Ta có thể nhẩm tính được số lượng họa sĩ được học hành bài bản ngày ấy cũng không quá 200 người. Vậy nhưng con số những người thành đạt ngày ấy chiếm một tỉ lệ khá cao so với bây giờ. Có thể nhắc đến 3 bộ tứ lưu truyền trong dư luận ngay từ hồi ấy. Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn. Dân gian gọi tắt là Trí Lân Vân Cẩn. Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái. Dân gian gọi tắt là Nghiêm Liên Sáng Phái. Và một bộ tứ nữa ở hải ngoại là Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Vũ Cao Đàm gọi tắt là Phổ Thứ Lựu Đàm. Tất nhiên cách gọi tắt như thế có phần hơi hỗng hễnh. Nhưng biết làm sao được. Dân gian có cách ghi nhớ của mình theo âm điệu. Cách gọi tên bộ tứ như thế còn có cả ở những ngành nghề khác. Đại khái như Lâm Lê Tấn Vượng là cách gọi những nhà sử học hàng đầu ở chế độ ta. Lí do vì sao người ta hay gọi là bộ tứ mà không phải ngũ, lục, thất, bát thì cho đến bây giờ cũng chẳng ai giải thích nổi.
Ngoài ba bộ tứ lừng danh ấy còn những họa sĩ thành danh khác chưa được nhắc đến nhiều nhưng tác phẩm của họ cũng đều đạt đến độ đáng ngưỡng mộ. Đó là Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Bình, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ, Lê Quốc Lộc, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Tiến Chung, Lương Xuân Nhị, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Trọng Hợp v.v… Mỗi người có một phong cách sáng tạo riêng của mình nhưng thành tựu lớn nhất mà họ đạt được là làm nên hẳn một diện mạo mỹ thuật hàn lâm riêng biệt trong toàn cõi Đông Dương.
Cho đến tận bây giờ, việc nhận diện ra một phong cách của trường CĐMTĐD trên thị trường mỹ thuật vẫn là việc dễ dàng cho những ai quan tâm đến nó. Câu hỏi vì sao lại thế liên tục xuất hiện. Cách giải thích thì nhiều vô kể nhưng phần lớn người ta nghiêng về phía qui ước cho các nghệ sĩ của trường CĐMTĐD một bản sắc dân tộc nào đó rất mơ hồ. Đại khái những giải thích theo cách rằng những người thầy Pháp của họ cũng chỉ là họa sĩ “thường thường bậc trung” theo trường phái hậu ấn tượng ở chính quốc nên chẳng thể đào tạo được học trò theo lối hàn lâm đích thực nhất. Hoặc theo cách khác là những họa sĩ Việt ngày đầu học vẽ cũng còn bỡ ngỡ chưa thể nắm bắt được hết những tinh hoa của nghề nghiệp. Nó cũng giống như những bài “tập làm văn” của thời kì đầu văn học quốc ngữ. Những cách giải thích này gần như không được chấp nhận dù rằng nó là một phần hết sức quan trọng của sự thật. Theo hồi ức của những bậc thầy mỹ thuật Việt Nam thời trường CĐMTĐD thì trường hợp điển hình là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Ông Chánh khá yếu về các môn học cơ bản đến mức thầy V.Tardieu phải sang Vân Nam Trung Quốc mua về một ít lụa và khuyên ông Chánh nên nghiên cứu tranh quốc họa Tàu mà theo đó để sáng tác. Bản thân V.Tardieu cũng không ngờ ông Chánh đã thành công đến thế trong việc vẽ tranh lụa. Và cũng thật vô tình, kỹ thuật vẽ lụa của Nguyễn Phan Chánh cho đến tận bây giờ cũng chưa ai có thể sánh được cùng ông. Thành công ban đầu của Nguyễn Phan Chánh lúc ấy còn ảnh hưởng sang các đồng nghiệp khác về mặt tạo hình như Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Văn Đệ, Nguyễn Tường Lân…Họ có cách diễn hình đơn giản khái quát chú trọng nhiều đến nhịp điệu và dùng rất kiệm màu. Họ đã không đi sâu vào miêu tả khối như nghệ thuật hàn lâm dạy dỗ như thế. Và thành công của họ chính là đã làm nên một diện mạo mĩ thuật rất đặc sắc của Việt Nam.
Giá trị đích thực
Việc nhận định về giá trị đích thực các tác phẩm của họa sĩ trường CĐMTĐD tưởng rất dễ mà lại hóa khó vô cùng. Nếu chỉ căn cứ vào chuẩn mực của hội họa hậu ấn tượng đương thời thì tranh tượng của các cụ nhà ta đều ở khá xa mức trung bình. Chỉ một vài người như Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị…là tương đối nắm vững các kỹ thuật hàn lâm và có những tác phẩm theo chiều hướng ấy một cách cơ bản nhất. Số còn lại tìm tòi hoàn thiện mình bằng những con đường khác. Nguyễn Đỗ Cung và Tạ Tỵ có khuynh hướng nghiên cứu sâu về nghệ thuật lập thể. Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm…đam mê bộ môn sơn mài do cô giáo Pháp Alix Aymé hướng dẫn. Nhận định như thế về các bậc thầy mỹ thuật Việt Nam của lớp hậu sinh kể cũng có phần khiếm nhã. Nhưng trong lúc chưa có nhận định nào sáng sủa hơn thì cũng đành vậy.
Nhận định về giá trị đích thực của Mỹ thuật Đông Dương vài năm gần đây đã có những chuyển biến tốt. Một phần đề cao giá trị của những tác phẩm còn lại đã bắt đầu trở nên hiếm hoi. Phần khác, công chúng yêu mỹ thuật đã bắt đầu tiếp cận được với những giá trị thẩm mỹ chân chính. Tuy nhiên cũng bắt đầu bộc lộ những lệch lạc về nhận thức. Có không ít khán giả cho rằng đã là Mỹ thuật Đông Dương thì ắt hẳn phải là đỉnh cao của nghệ thuật. Và giá tiền để có thể mua chúng là không hề nhỏ.
Mỹ thuật Đông Dương hay bất cứ nền mỹ thuật nào cũng đều có chỗ hay, chỗ dở. Nhất là với một ngành nghệ thuật vừa mới ra đời ở nước ta thì việc đòi hỏi nó hoàn hảo là phi lí. Bản thân từng họa sĩ Đông Dương không phải lúc nào cũng cho ra đời những tác phẩm hay. Đến cả H. Matisse hay P. Picasso cũng vẫn có những tác phẩm dở như thường. Tất nhiên cái dở của họ chỉ có thể là so với chính họ thôi.
Những tác phẩm của Lê Phổ, Mai Trung Thứ gần đây được các nhà đấu giá danh tiếng thế giới bán ra với giá hàng triệu USD có đích thực là chúng có giá trị đến thế hay không? Chuyện này không dễ kết luận. Việc đánh giá của nhà đấu giá phần lớn dựa trên nhu cầu thị trường mà không có một phép so sánh tối giản nào với các tác phẩm cùng thời của các họa sĩ châu Âu. Ta nên biết rằng những tác phẩm của các họa sĩ hạng trung bình ở châu Âu cũng không bao giờ có giá đến như thế. Tiền triệu một bức tranh hình như vẫn là của một số ít các họa sĩ tên tuổi tầm cỡ thế giới.
Nếu đã không có căn cứ nào để định giá các tác phẩm của Mỹ thuật Đông Dương thì vấn đề còn lại của việc này chỉ đơn thuần còn lại là thao tác kỹ thuật PR của các nhà đấu giá. Và như ta từng biết, các chuyên gia của những nhà đấu giá danh tiếng thế giới cũng không hẳn là có hiểu biết đầy đủ về trường CĐMTĐD. Đó là còn chưa kể đến việc họ cố tình làm giá cho những tác phẩm giả mạo như trường hợp của chuyên gia J.-F.Hubert. Tay này đã bán ra và xác nhận cho khá nhiều tranh giả được gán cho các họa sĩ của trường CĐMTĐD. Đọc qua những dòng quảng cáo và phân tích tác phẩm của các nhà đấu giá đối với các tác phẩm hội họa thời trường CĐMTĐD thấy nó sơ sài đến lạ lùng. Phần lớn kể lể tiểu sử họa sĩ mà không hề có chút nào phân tích về mặt kỹ, mỹ thuật của bức tranh là đáng tin cậy.
Các họa sĩ của trường CĐMTĐD hầu hết là những người khiêm nhường. Họ biết rõ chỗ đứng của mình thuộc thứ bậc nào của nghệ thuật tạo hình thế giới. Thậm chí lúc sinh thời họa sĩ Bùi Xuân Phái còn chưa bao giờ dám tự nhận mình là họa sĩ. Ông thường nói với lớp trẻ: cái danh họa sĩ nó lớn lắm, tôi chỉ là người học vẽ thôi! Như thế để thấy rằng tác phẩm của các họa sĩ trường CĐMTĐD có giá cao đến như bây giờ cũng có lẽ làm cho chính họ phải ngạc nhiên.
Vậy thì câu hỏi cuối cùng được đặt ra là : Ai là người bỏ tiền ra để sở hữu những tác phẩm ấy ? Câu trả lời chắc cũng sắp được lộ sáng rồi. Đã không thấy có tên tuổi của bất kì một người nước ngoài nào được công bố là khách mua tranh !
Hà Nội 9-2022
Đỗ Phấn
NGUỒN : Đỗ Phấn, Vọng âm Sắc màu, Nxb Trẻ 2025
Tác giả gửi cho Diễn Đàn ngày 8.11.2025
Subscribe to:
Comments (Atom)









