Your vision will become clear only when you look into your heart.... Who looks outside, dreams. Who looks inside, awakens. Carl Jung
Sunday, November 16, 2025
Nghĩ về giá trị Mỹ thuật Đông Dương
https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/nghi-ve-gia-tri-my-thuat-dong-duong-1
Nghĩ về giá trị Mỹ thuật Đông Dương
Đỗ Phấn
Trước hết cần khẳng định ngay rằng 17 khóa tuyển sinh của Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương (CĐMTĐD) từ 1925 đến 1945 là một dấu ấn lịch sử có tính khai sáng cho hội họa Việt Nam. Không có những người thầy và học trò ấy ắt hẳn hội họa Việt vẫn “bờ tre khóm lúa” như vài trăm năm trước. Thậm chí trước đó người Việt còn không có khái niệm hội họa. Chỉ có một vài làng bên Kinh Bắc, Huế và Hà Nội đang lưu hành một thứ mỹ thuật dân gian là tranh khắc gỗ. Tranh khắc gỗ in hàng loạt có vẻ như bắt nguồn từ việc khắc và in văn tự cùng tranh minh họa nhà Phật. Dấu tích của nó còn khá nhiều trong các bản khắc chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Yên Dũng - Bắc Giang từ thời Trần.
Niềm tự hào dân tộc
Không còn nghi ngờ gì nữa khi ta nói rằng Trường CĐMTĐD là cái nôi đầu tiên sản sinh và nuôi dưỡng hội họa Việt Nam. Ở đó có các bậc thầy người Pháp thuộc trường phái hậu ấn tượng. Ở đó có các lớp học sinh đầu tiên học theo hội họa hàn lâm châu Âu. Vài người giỏi nghề đã nổi tiếng cả ở bên Pháp ngay từ lúc còn đi học. Tranh của họ được mang đi triển lãm và bán đấu giá ở những hội chợ lớn ngay tại Paris thủ đô nước Pháp. Tất nhiên không loại trừ một khả năng là khán giả châu Âu thời ấy có một chút định kiến gì đó trong con mắt thực dân của mình. Họ yêu quí và đề cao những người được chính họ đào tạo thì cũng tựa như đề cao chính mình. Chẳng có gì lạ cả.
Thế nhưng với người Việt, các họa sĩ hàn lâm những thế hệ đầu tiên ấy là một niềm tự hào có thật. Một khởi đầu cho cả một nền mỹ thuật sau này. Không tự hào sao được khi mà những tác phẩm tranh khắc gỗ trước đó của người Việt là thứ chỉ được bày bán ở những chợ quê hoặc phố trong ngày tết. Nó chỉ là một món hàng giải trí các bà các chị đi chợ mua thêm thắt vào cho có không khí tết mà thôi. Nhiều thế kỉ qua đi mà Việt Nam chưa có tên tuổi một họa sĩ nào được ghi chép lại. Giờ đây, tranh của các họa sĩ có đầy đủ tên tuổi và học vấn đã bắt đầu hình thành hẳn một thị trường trao đổi bán mua nhộn nhịp. Tất nhiên khán giả Việt lúc ấy vẫn chỉ gói gọn trong thành phần trí thức. Một vài thương nhân quan tâm đến hội họa cũng không hẳn vì lí do hiểu biết. Bài toán của họ luôn là một ẩn số cho đến tận bây giờ.
Trường CĐMTĐD với 17 khoá tuyển sinh mỗi khoá khoảng mươi người. Ta có thể nhẩm tính được số lượng họa sĩ được học hành bài bản ngày ấy cũng không quá 200 người. Vậy nhưng con số những người thành đạt ngày ấy chiếm một tỉ lệ khá cao so với bây giờ. Có thể nhắc đến 3 bộ tứ lưu truyền trong dư luận ngay từ hồi ấy. Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn. Dân gian gọi tắt là Trí Lân Vân Cẩn. Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái. Dân gian gọi tắt là Nghiêm Liên Sáng Phái. Và một bộ tứ nữa ở hải ngoại là Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Vũ Cao Đàm gọi tắt là Phổ Thứ Lựu Đàm. Tất nhiên cách gọi tắt như thế có phần hơi hỗng hễnh. Nhưng biết làm sao được. Dân gian có cách ghi nhớ của mình theo âm điệu. Cách gọi tên bộ tứ như thế còn có cả ở những ngành nghề khác. Đại khái như Lâm Lê Tấn Vượng là cách gọi những nhà sử học hàng đầu ở chế độ ta. Lí do vì sao người ta hay gọi là bộ tứ mà không phải ngũ, lục, thất, bát thì cho đến bây giờ cũng chẳng ai giải thích nổi.
Ngoài ba bộ tứ lừng danh ấy còn những họa sĩ thành danh khác chưa được nhắc đến nhiều nhưng tác phẩm của họ cũng đều đạt đến độ đáng ngưỡng mộ. Đó là Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Bình, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ, Lê Quốc Lộc, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Tiến Chung, Lương Xuân Nhị, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Trọng Hợp v.v… Mỗi người có một phong cách sáng tạo riêng của mình nhưng thành tựu lớn nhất mà họ đạt được là làm nên hẳn một diện mạo mỹ thuật hàn lâm riêng biệt trong toàn cõi Đông Dương.
Cho đến tận bây giờ, việc nhận diện ra một phong cách của trường CĐMTĐD trên thị trường mỹ thuật vẫn là việc dễ dàng cho những ai quan tâm đến nó. Câu hỏi vì sao lại thế liên tục xuất hiện. Cách giải thích thì nhiều vô kể nhưng phần lớn người ta nghiêng về phía qui ước cho các nghệ sĩ của trường CĐMTĐD một bản sắc dân tộc nào đó rất mơ hồ. Đại khái những giải thích theo cách rằng những người thầy Pháp của họ cũng chỉ là họa sĩ “thường thường bậc trung” theo trường phái hậu ấn tượng ở chính quốc nên chẳng thể đào tạo được học trò theo lối hàn lâm đích thực nhất. Hoặc theo cách khác là những họa sĩ Việt ngày đầu học vẽ cũng còn bỡ ngỡ chưa thể nắm bắt được hết những tinh hoa của nghề nghiệp. Nó cũng giống như những bài “tập làm văn” của thời kì đầu văn học quốc ngữ. Những cách giải thích này gần như không được chấp nhận dù rằng nó là một phần hết sức quan trọng của sự thật. Theo hồi ức của những bậc thầy mỹ thuật Việt Nam thời trường CĐMTĐD thì trường hợp điển hình là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Ông Chánh khá yếu về các môn học cơ bản đến mức thầy V.Tardieu phải sang Vân Nam Trung Quốc mua về một ít lụa và khuyên ông Chánh nên nghiên cứu tranh quốc họa Tàu mà theo đó để sáng tác. Bản thân V.Tardieu cũng không ngờ ông Chánh đã thành công đến thế trong việc vẽ tranh lụa. Và cũng thật vô tình, kỹ thuật vẽ lụa của Nguyễn Phan Chánh cho đến tận bây giờ cũng chưa ai có thể sánh được cùng ông. Thành công ban đầu của Nguyễn Phan Chánh lúc ấy còn ảnh hưởng sang các đồng nghiệp khác về mặt tạo hình như Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Văn Đệ, Nguyễn Tường Lân…Họ có cách diễn hình đơn giản khái quát chú trọng nhiều đến nhịp điệu và dùng rất kiệm màu. Họ đã không đi sâu vào miêu tả khối như nghệ thuật hàn lâm dạy dỗ như thế. Và thành công của họ chính là đã làm nên một diện mạo mĩ thuật rất đặc sắc của Việt Nam.
Giá trị đích thực
Việc nhận định về giá trị đích thực các tác phẩm của họa sĩ trường CĐMTĐD tưởng rất dễ mà lại hóa khó vô cùng. Nếu chỉ căn cứ vào chuẩn mực của hội họa hậu ấn tượng đương thời thì tranh tượng của các cụ nhà ta đều ở khá xa mức trung bình. Chỉ một vài người như Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị…là tương đối nắm vững các kỹ thuật hàn lâm và có những tác phẩm theo chiều hướng ấy một cách cơ bản nhất. Số còn lại tìm tòi hoàn thiện mình bằng những con đường khác. Nguyễn Đỗ Cung và Tạ Tỵ có khuynh hướng nghiên cứu sâu về nghệ thuật lập thể. Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm…đam mê bộ môn sơn mài do cô giáo Pháp Alix Aymé hướng dẫn. Nhận định như thế về các bậc thầy mỹ thuật Việt Nam của lớp hậu sinh kể cũng có phần khiếm nhã. Nhưng trong lúc chưa có nhận định nào sáng sủa hơn thì cũng đành vậy.
Nhận định về giá trị đích thực của Mỹ thuật Đông Dương vài năm gần đây đã có những chuyển biến tốt. Một phần đề cao giá trị của những tác phẩm còn lại đã bắt đầu trở nên hiếm hoi. Phần khác, công chúng yêu mỹ thuật đã bắt đầu tiếp cận được với những giá trị thẩm mỹ chân chính. Tuy nhiên cũng bắt đầu bộc lộ những lệch lạc về nhận thức. Có không ít khán giả cho rằng đã là Mỹ thuật Đông Dương thì ắt hẳn phải là đỉnh cao của nghệ thuật. Và giá tiền để có thể mua chúng là không hề nhỏ.
Mỹ thuật Đông Dương hay bất cứ nền mỹ thuật nào cũng đều có chỗ hay, chỗ dở. Nhất là với một ngành nghệ thuật vừa mới ra đời ở nước ta thì việc đòi hỏi nó hoàn hảo là phi lí. Bản thân từng họa sĩ Đông Dương không phải lúc nào cũng cho ra đời những tác phẩm hay. Đến cả H. Matisse hay P. Picasso cũng vẫn có những tác phẩm dở như thường. Tất nhiên cái dở của họ chỉ có thể là so với chính họ thôi.
Những tác phẩm của Lê Phổ, Mai Trung Thứ gần đây được các nhà đấu giá danh tiếng thế giới bán ra với giá hàng triệu USD có đích thực là chúng có giá trị đến thế hay không? Chuyện này không dễ kết luận. Việc đánh giá của nhà đấu giá phần lớn dựa trên nhu cầu thị trường mà không có một phép so sánh tối giản nào với các tác phẩm cùng thời của các họa sĩ châu Âu. Ta nên biết rằng những tác phẩm của các họa sĩ hạng trung bình ở châu Âu cũng không bao giờ có giá đến như thế. Tiền triệu một bức tranh hình như vẫn là của một số ít các họa sĩ tên tuổi tầm cỡ thế giới.
Nếu đã không có căn cứ nào để định giá các tác phẩm của Mỹ thuật Đông Dương thì vấn đề còn lại của việc này chỉ đơn thuần còn lại là thao tác kỹ thuật PR của các nhà đấu giá. Và như ta từng biết, các chuyên gia của những nhà đấu giá danh tiếng thế giới cũng không hẳn là có hiểu biết đầy đủ về trường CĐMTĐD. Đó là còn chưa kể đến việc họ cố tình làm giá cho những tác phẩm giả mạo như trường hợp của chuyên gia J.-F.Hubert. Tay này đã bán ra và xác nhận cho khá nhiều tranh giả được gán cho các họa sĩ của trường CĐMTĐD. Đọc qua những dòng quảng cáo và phân tích tác phẩm của các nhà đấu giá đối với các tác phẩm hội họa thời trường CĐMTĐD thấy nó sơ sài đến lạ lùng. Phần lớn kể lể tiểu sử họa sĩ mà không hề có chút nào phân tích về mặt kỹ, mỹ thuật của bức tranh là đáng tin cậy.
Các họa sĩ của trường CĐMTĐD hầu hết là những người khiêm nhường. Họ biết rõ chỗ đứng của mình thuộc thứ bậc nào của nghệ thuật tạo hình thế giới. Thậm chí lúc sinh thời họa sĩ Bùi Xuân Phái còn chưa bao giờ dám tự nhận mình là họa sĩ. Ông thường nói với lớp trẻ: cái danh họa sĩ nó lớn lắm, tôi chỉ là người học vẽ thôi! Như thế để thấy rằng tác phẩm của các họa sĩ trường CĐMTĐD có giá cao đến như bây giờ cũng có lẽ làm cho chính họ phải ngạc nhiên.
Vậy thì câu hỏi cuối cùng được đặt ra là : Ai là người bỏ tiền ra để sở hữu những tác phẩm ấy ? Câu trả lời chắc cũng sắp được lộ sáng rồi. Đã không thấy có tên tuổi của bất kì một người nước ngoài nào được công bố là khách mua tranh !
Hà Nội 9-2022
Đỗ Phấn
NGUỒN : Đỗ Phấn, Vọng âm Sắc màu, Nxb Trẻ 2025
Tác giả gửi cho Diễn Đàn ngày 8.11.2025