Your vision will become clear only when you look into your heart.... Who looks outside, dreams. Who looks inside, awakens. Carl Jung
Monday, November 3, 2025
Krasznahorkai László
https://tiasang.com.vn/van-hoa/krasznahorkai-laszlo-bac-thay-cua-tan-the/
Nhà văn Krasznahorkai László
Giáp Văn Chung
Oct 30, 2025
Các tác phẩm của ông mang tính dự báo, tiên tri về tương lai của thế giới và xã hội. Các nhà phê bình coi ông sánh ngang với Kafka, Thomas Bernhard, Melville… nhưng ông vẫn giữ được đặc trưng và cá tính riêng biệt….
Sau các chuyến đi Trung Quốc, ông đã hoàn thành tiểu thuyết Az Urgai Fogoly (The prisoner of Urga, 1993) và sau các chuyến đi Nhật Bản, ông đã viết tiểu thuyết Északról hegy, Délről tó, Nyugatról utak, Keletról folyó (From the north by hill, From the south by lake, From the west by roads, From the east by river, 2003).
Krasznahorkai László là một nhà văn có cá tính rất đặc biệt, văn phong độc đáo, một trong số ít những tên tuổi lớn đáng chú ý, một ngôi sao có ánh sáng khác lạ trên bầu trời văn chương đương đại Hungary. Xin trân trong giới thiệu để bạn đọc trong nước có thể tiếp cận với một tác giả được coi là “quái kiệt” của văn chương Hungary
Các tác phẩm nổi bật của ông có thể kể đến: Satantango (Vũ điệu quỷ Satan, 1985); Nỗi buồn của sự phản kháng , 1989; Chiến tranh và Chiến tranh, 1999; Siebolo giáng lâm, 2008; Bá tước Wencheim trở về, 2016; Sự hủy hoại và nỗi buồn dưới bầu trời, 2004 v.v…
Các tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt của Krasznahorkai László: Chiến tranh và chiến tranh (Nhã Nam, Hội nhà Văn, 2017) và Satantango (hay “Vũ điệu quỷ Satan” (Nhã Nam, Văn Học, 2022).
Tới nay, ông đã giành được trên 20 giải thưởng có giá trị của Hungary và quốc tế, tiêu biểu như Bestenliste Prize của Đức (1993); Giải Kossuth (2004); America Award in Literature (2014); Man Booker Quốc tế (2015) và Giải Nobel Văn chương (2025).
Related Link:
https://tiasang.com.vn/van-hoa/doc-laszlo-krasznahorkai-o-viet-nam-tu-mot-trai-nghiem-tren-giang-duong/
Đọc Laszlo Krasznahorkai ở Việt Nam: Từ một trải nghiệm trên giảng đường
Trần Ngọc Hiếu
Nov 02, 2025
Tôi nghĩ Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển có lý khi cho rằng thứ văn chương của Krasznahorkai làm người ta tin vào quyền năng của nghệ thuật. Đó là quyền năng của một thứ văn chương bi quan đến tuyệt vọng nhưng thường thứ văn chương như thế lại có khả năng thấu thị và ít lừa mị con người hơn cả. Điều đó được thể hiện ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông – Vũ điệu quỷ Satan (1985). Cuốn tiểu thuyết được sáng tác và lấy bối cảnh của thời hậu kỳ Chiến tranh Lạnh cách đây 40 năm, mỉa mai thay, chẳng khác mấy thực tại của thế giới đương đại. Với những câu văn cố tình lê thê, rậm rạp, Krasznahorkai đã mô tả cái rệu rã của cả cảnh tượng lẫn con người. Như những khuôn hình cận cảnh trong điện ảnh, lời trần thuật của ông chậm rãi làm nổi bật quá trình mục ruỗng lương năng ở con người vốn bị giam hãm trong một mô hình xã hội đầy ảo tưởng duy ý chí. Không khác gì các nhân vật trong vở Chờ Godot của Beckett, nhân vật của Krasznahorkai chỉ còn sống trong sự chờ đợi một nhà tiên tri giả và để rồi bị bỏ rơi ở trạm quá cảnh lên thiên đường. Cái cơ chế làm cạn kiệt sự chờ đợi của con người vào một tương lai không bao giờ đến và rốt cục bị bỏ mặc mà không hay đầy bất nhẫn ấy thực ra vẫn đang vận hành thế giới mà chúng ta đang sống. Lời cảnh báo của văn chương dẫu vang lên sớm nhưng hình như vẫn luôn được hiểu muộn. Rất muộn….
Văn bản mà tôi lựa chọn vốn được đăng trên mục “Truyện chớp” của tờ The New Yorker và sau này là văn bản cuối cùng của tập The World Goes On (Thế giới tiếp diễn, 2024) của Krasznahorkai nên thường được mặc định là một văn bản truyện. Nhưng thật ra rất khó xếp nó gọn gàng vào một thể loại định hình nào:
Tôi sẽ để lại mọi thứ, những thung lũng, những ngọn đồi, những con đường và những con giẻ cùi trong những khu vườn, để lại những vòi nước và những cha xứ, thiên đường và trần gian, mùa xuân và mùa thu, để lại những lối về, những buổi tối trong căn bếp, ánh mắt yêu thương cuối cùng và mọi con đường rùng rợn dẫn vào thành phố, để lại hoàng hôn dày phủ trên mặt đất, sức nặng, hy vọng, say mê và yên bình, để lại những người thân yêu và gần gũi, mọi thứ cảm động, bàng hoàng, thích thú và thăng hoa, để lại sự cao quý, lòng nhân từ, sự dễ chịu và cái đẹp ma quái, để lại mỗi chồi non, mỗi sự ra đời và tồn tại, để lại câu thần chú, sự bí ẩn, những khoảng cách, sự bất tận và cái ngây ngất của vĩnh cửu: bởi tôi sẽ rời bỏ Trái đất này và những vì sao kia, bởi tôi sẽ chẳng mang theo thứ gì từ nơi này, bởi tôi đã nhìn vào những gì đang đến, và tôi chẳng cần gì ở nơi đây.
(“Chẳng cần gì nơi đây” – bản dịch của Nguyễn Huy Hoàng)
