Thursday, October 30, 2025

Huế ơi

https://www.diendan.org/sang-tac/hue-oi Huế ơi Nguyễn Duy Nước nuốt chửng Kim Long Vĩ Dạ Nước dìm đầu Đập Đá, Dã Viên Mong manh Bạch Hổ, Trường Tiền Ngọ Môn, Đại Nội thành miền thủy cung Thương xót nỗi khốn cùng nhân thế Xứ thần kinh biến thể biển hồ Sông Hương nước nhảy vượt bờ Cố đô bỗng hóa kinh đô Thủy Tề Thiên Thọ ứa bốn bề nước mắt Ngự Bình lên cơn nấc cuồng phong Phận người bèo bọt long đong Kỳ Đài nhọn hoắt giữa lòng đại dương. Sài Gòn, 28.10.2025 Nguyễn Duy Hình ảnh phố cổ Hội An ngập lũ tháng Mười, 2025 https://tuoitre.vn/hinh-anh-nuoc-lut-o-hoi-an-sang-nay-cham-moc-lich-su-nam-thin-1964-20251030105143623.htm https://tuoitre.vn/chum-anh-pho-co-hoi-an-menh-mong-trong-bien-nuoc-20251028104020824.htm

Tuesday, October 28, 2025

Thần kỳ kinh tế Tây Đức sau thế chiến thứ hai (1949-1969)

Audio Book Thần kỳ kinh tế Tây Đức sau Thế chiến thứ hai (1949-1969) June 2025 Tác giả: Tôn Thất Thông Author Bio: Tôn Thất Thông Sinh ra và lớn lên tại Huế, ngay từ nhỏ ông đã thích ngành sư phạm, nhưng sau khi tốt nghiệp tú tài 2 năm 1961, do hoàn cảnh đưa đẩy ông lại vào học Đại học tại Sài Gòn và trở thành một công chức hành chánh. Nhưng có lẽ niềm đam mê nghiên cứu và được tham gia giảng dạy thôi thúc, nên vào năm 1968, ông xin nghỉ việc để tiếp tục học lên cao học chuyên ngành Tài chính và Cử nhân văn khoa. Sau đó chuyển về làm việc tại Bộ Tài chính và tham gia giảng dạy tại một số trường trung học tại Sài Gòn. Năm 1971 ông đã được Bộ Quốc gia Giáo dục cấp giấy phép dạy học. 1. https://www.youtube.com/watch?v=sla47DbJRQw&list=PLMoc-FETlUMpgU81VrpowopGvsnzLc9Ei&index=5 2. https://www.youtube.com/watch?v=Hf8G9tpkA68 https://www.youtube.com/watch?v=yYIPi3icTQQ 3. https://www.youtube.com/playlist?list=PLMoc-FETlUMpgU81VrpowopGvsnzLc9Ei 4. https://www.youtube.com/watch?v=sdCuiG7BJRU&list=PLMoc-FETlUMpgU81VrpowopGvsnzLc9Ei&index=2 5. https://www.youtube.com/watch?v=tGCzuNWe0bY&list=PLMoc-FETlUMpgU81VrpowopGvsnzLc9Ei&index=1

Đâu phải giàu mới thành công

1/ Định nghĩa chữ "giàu" hay "thành công" còn tùy cái nhìn của mỗi người. 2/ Tiền bạc chỉ là một phương tiện đa năng. Nó là một mặt của cuộc sống đa dạng, muôn mặt. Chúng ta cần có tiền để thực hiện nhiều công việc, dự án hay ước mơ. Nhưng tiền không phải là điều kiện duy nhất, "ắt có và đủ," để đem lại hạnh phúc cho con người. Các đơn vị tiền tệ chỉ có giá trị trong một khuông khổ chính trị-xã hội nhất định, và trong một khoảng thời gian, không gian nào đó. Giá vàng hay các loại đá quý hay quý kim khác cũng thế, trồi sụt tùy nhiều yếu tố. Tạm bợ. 3/ Mỗi chúng ta là một đơn vị nhỏ trong thế giới loài người, có liên hệ mật thiết đến những gì xảy ra cho tất cả quanh ta, từ môi trường, khí hậu đến kinh tế, chính trị, xã hội. Ngay cả những người lên núi ẩn tu cũng còn phải có vài lần xuống núi để giao tiếp hay làm một số điều cần yếu cho bản thân người ấy và người khác. Mặt khác, người ẩn tu ấy cũng phải có đôi lần phải tiếp xúc với một người từ chỗ khác đến hay đi qua không gian người ẩn tu sống. 4/ Cuộc sống phong phú, và luôn có vô vàn giá trị để chúng ta khám phá, học hỏi, thưởng thức, trải nghiệm. 5/ Khái niệm "thành công"/success và khái niệm "giá trị"/ value, và khái niệm "hạnh phúc"... là những phạm trù khác nhau trong tư duy con người. Chúng tùy thuộc cái nhìn của mỗi cá nhân. https://saigonnhonews.com/mindfulness/dau-phai-giau-moi-thanh-cong/ Đâu phải giàu mới thành công! Mai Lâm – 27 tháng 10, 2025 Dù không giàu có, nếu bạn hài lòng với những gì mình có, liên tục học hỏi, không sợ thất bại và luôn sống thật với chính mình… điều đó chứng tỏ bạn là người thành công. Bạn hài lòng với những gì mình có Một chiếc xe hơi sang trọng hay một căn hộ cao cấp có thể là điều tuyệt vời, nhưng liệu những điều đó có thực sự định nghĩa thành công không? Thành công thực sự thường bắt nguồn từ sự hài lòng. Đó là việc trân trọng những gì mình đang có thay vì liên tục thèm muốn nhiều hơn. Đó là việc tìm thấy niềm vui trong những điều giản đơn và biết ơn vì chúng. Vậy nên, nếu bạn là người nhìn xung quanh và cảm thấy hài lòng với cuộc sống, bạn đang thành công. Bạn liên tục học hỏi và phát triển Cởi mở với việc học hỏi và phát triển bản thân là dấu hiệu chắc chắn của thành công. Tại sao? Bởi điều đó cho thấy bạn không chỉ quan tâm đến lợi nhuận tiền bạc. Thay vào đó, bạn cam kết cải thiện bản thân, mở rộng tầm nhìn và trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình. Vì vậy, nếu bạn nhiệt tình tiếp thu kiến thức từ mọi nguồn có thể, hãy tự khen ngợi mình. Bạn đang làm đúng. Thất bại không làm bạn sợ Bạn có phải người từng trải qua nhiều thất bại, từng muốn bỏ cuộc và đầu hàng, nhưng rồi cuối cùng bạn vẫn đứng vững và tiếp tục phấn đấu? Đó chính là ý nghĩa thực sự của thành công. Thành công không có nghĩa là không bao giờ thất bại, mà là không để thất bại ngăn cản bạn. Đó là sử dụng những lần vấp ngã như bước đệm hướng tới ước mơ. Việc chấp nhận thất bại có thể không khiến bạn trở nên giàu có theo nghĩa truyền thống. Nhưng nó khiến bạn trở nên giàu có về khả năng phục hồi, lòng dũng cảm và sự quyết tâm tuyệt đối – những phẩm chất đáng giá hơn nhiều so với bất kỳ số tiền nào. Bạn tạo ra tác động tích cực Bạn đã bao giờ làm một việc nhỏ và có vẻ không đáng kể, chỉ để sau đó nhận ra rằng nó đã tạo ra sự khác biệt lớn trong cuộc sống của ai đó chưa? Đôi khi chỉ là việc cắt cỏ trong sân sau giúp cho bà cụ hàng xóm. Có thể bạn không nghĩ nhiều về nó, nhưng bạn đã làm cho bà vui mừng và dường nào. Thành công thực sự cũng có nghĩa là tạo ra tác động tích cực. Tác động đó không cần phải to tát hay chấn động thế giới. Đôi khi, chính những điều nhỏ nhặt lại có ý nghĩa nhất. Nếu bạn đang phấn đấu để thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn theo cách riêng dù nhỏ hay lớn thì bạn đã thành công. Bởi thành công thực sự không chỉ là lợi ích cá nhân, mà còn là nâng đỡ người khác và tạo ra khác biệt. Bạn duy trì sự cân bằng lành mạnh giữa công việc và cuộc sống Trong thế giới hối hả, thật dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy và quên mất sức khỏe. Nhưng hãy để tôi nói cho bạn biết điều này – làm việc quần quật không phải là dấu hiệu của thành công, đó là con đường dẫn đến kiệt sức. Thành công thực sự bao gồm việc cân bằng hiệu quả các khía cạnh trong cuộc sống. Điều đó có nghĩa là dành thời gian cho việc thư giãn và giải trí, bên cạnh công việc. Đó là về việc vun đắp các mối quan hệ, theo đuổi sở thích và chăm sóc sức khỏe. Điều tuyệt vời nhất khi cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân là gì? Bạn không cần phải hy sinh sức khỏe hoặc hạnh phúc của mình để đạt được điều đó. Bạn thực hành sự đồng cảm và thấu hiểu Bạn từng có những lúc hiểu lầm người khác, đưa ra phán đoán quá nhanh và điều đó dẫn đến tổn thương? Nhưng theo thời gian, bạn học được rằng mọi người đều đang chiến đấu với những trận chiến riêng. Những trận chiến mà chúng ta có thể không hiểu hoặc thậm chí không nhận thức được. Đây là lúc sự đồng cảm phát huy tác dụng. Bạn đặt mình vào vị trí của người khác và cố gắng hiểu quan điểm của họ. Bạn cố gắng thể hiện lòng tốt, ngay cả khi điều đó khó khăn. Vì vậy, nếu bạn là người thực hành sự đồng cảm, người cố gắng hiểu thay vì phán xét, xin chúc mừng! Bạn đang thể hiện một trong những dấu hiệu thành công sâu sắc nhất. Bởi thành công không chỉ là những gì chúng ta đạt được, nó còn là cách chúng ta đối xử với người khác trên suốt chặng đường. -Bạn sống thật với chính mình Trong một thế giới liên tục nhắc nhở bạn phải là ai, phải làm gì và hành động như thế nào, việc luôn là chính mình có thể là một thách thức thực sự. Nhưng điều quan trọng là không có số tiền, quyền lực hay danh tiếng nào có thể thay thế cảm giác được là chính mình. Bởi thành công không phải là việc phải phù hợp với một khuôn mẫu nào đó, mà là không hối hận khi là chính mình và sống đúng với con người thật của bạn. (theo Hack Spirit)

Monday, October 27, 2025

Thơ Tình -Thi Sĩ Hồ Dzếnh

https://www.youtube.com/watch?v=DfOYNUaGFtc https://www.youtube.com/watch?v=30YSYqeO53M&list=PLngu3qzvJ3g3Wu5-NlNchd171BLzJeN1_&index=2 Hồ Dzếnh (1916–1991), tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh) là một nhà thơ của Việt Nam. Ông được biết nhiều nhất qua tập thơ Quê ngoại với một giọng thơ nhẹ nhàng, siêu thoát, phảng phất hương vị thơ cổ Trung Hoa. Ngoài ra, Hồ Dzếnh còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm, tiêu biểu là tập truyện ngắn Chân trời cũ (1942), Thạch Lam đề tựa. Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích, xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt, quê ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. Năm 1953 ông vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội tiếp tục viết báo, làm thơ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ngay từ buổi đầu thành lập (1957). Ông mất ngày 13/8/1991 tại Hà Nội.

Sunday, October 26, 2025

A digital conflict between Russia and Ukraine rages on behind the scenes of war

A digital conflict between Russia and Ukraine rages on behind the scenes of war June 3, 20225:40 AM ET Jenna McLaughlin https://www.npr.org/2022/06/03/1102484975/a-digital-conflict-between-russia-and-ukraine-rages-on-behind-the-scenes-of-war According to Tom Burt, Microsoft witnessed several "destructive attacks against a number of Ukrainian government agencies." Meron Menghistab for NPR
Tom Burt, a vice president at Microsoft who manages the digital crimes unit. Meron Menghistab for NPR SEATTLE — On the sidelines of a conference in Estonia on Wednesday, a senior U.S. intelligence official told British outlet Sky News that the U.S. is running offensive cyber operations in support of Ukraine. "My job is to provide a series of options to the secretary of defense and the president, and so that's what I do," said Gen. Paul Nakasone, the head of the National Security Agency, who also serves as the chief of the Pentagon's digital branch, the U.S Cyber Command. While he did not give any further detail, it was the first time the spy chief alluded to the U.S. government's efforts to launch counterattacks against Russia in cyberspace, in addition to helping defend Ukrainian agencies. The so-called "cyberwar" in Ukraine hasn't always been front and center of news coverage, but it's one of the things that might most directly impact the West. It's still a real possibility that U.S. companies or critical infrastructure could become collateral damage if Russian hackers decide to retaliate, according to cybersecurity officials. Even as the U.S. government is a key ally to Ukrainian defenders, the private sector might have a more complete picture of what's going on at any given time, because of their access to the digital systems in Russian hackers' crosshairs. The relationship between the U.S. private sector and Ukraine has only deepened as the war drags on into its third month. During an interview with NPR in Seattle last week, Microsoft head of customer security and trust Tom Burt detailed what his team has been seeing throughout the war, beginning a couple months prior to the official start of the physical invasion. Microsoft Corporation logo is seen on a top of a building in Kyiv, Ukraine, on Jan. 31, 2022. NurPhoto via Getty Images The buildup In January, acrding to Burt, Microsoft witnessed several "destructive attacks against a number of Ukrainian government agencies." This was the first time Microsoft and others observed what's become a major feature of Russia's digital strategy during the war — using wiper malware designed to destroy data within Ukrainian agencies. Burt said his team was trying to determine if the attacks might be a part of a broader offensive, or if it was yet another example of Russia testing out digital attack techniques in Ukraine, something the Kremlin has been doing for years. "That's the experimental zone for Russian cyberattacks," he said. Before publicly revealing what Microsoft had seen and attributing those attacks to Russia, Burt said he reached out to U.S. and Ukrainian government partners, to make sure Microsoft didn't "disrupt what might be very delicate conversations that were happening at the time." However, Burt said, both governments gave the green light — just one example of how public officials have been more open about disclosing sensitive information during the war in an effort to expose Russian aggression. It became obvious to Burt that an invasion was imminent on February 23, a day before Putin announced the "special military operation," he said. "So it's commonly believed that the invasion of Ukraine started on February 24th. But from our viewpoint, it really started on February 23rd, about 10 hours before the missiles were launched and the tanks rolled across the border," said Burt. "There was a huge wiper attack across 300 different systems in government agencies and private sector companies in Ukraine." According to Burt, at the beginning of the invasion, Microsoft only really had a pinhole view into what was happening in Ukraine. While some Ukrainian companies and agencies were using Microsoft products, where the company is routinely looking for threats, very few were using the cloud, where Microsoft has the most insights. Before the war, there was actually a law that prevented Ukranian agencies from using the cloud. That position was reversed on March 16, when the Ministry of Digital Transformation announced that state authorities are now allowed to store data using cloud services. According to Burt, Microsoft has been helping these agencies make the transition, and has become more able to detect threats as a result. There are still limitations, but the cloud had other benefits, says Burt. "We've been working with Ukrainian government agencies to completely move them to the cloud ... at least as a backup means of operating in case they get compromised on premises," he explained.
Debris and rubble after Russia strikes targeted the TV tower in Kyiv, capital city of Ukraine, on Thursday, March 3, 2022. It comes after Russia said it would strike communications infrastructure in the capital to stop information attacks. EyePress News/EYEPRESS via Reuters Connect The cyber and the physical Throughout the war, Burt says his team has noticed a pattern — Russian hackers will often have similar objectives to the Russian military on the ground. While he couldn't definitively say the two groups were actively coordinating, it was clear to Microsoft analysts that they were working from the same playbook. In the first days of the invasion, both the Russian military and hackers were targeting Ukrainian media and communications. "They bombed radio towers. They physically invaded and seized media companies. And at the same time, they were engaged in cyber attacks on media companies," he said. Russian hackers also launched a series of denial-of-service attacks on official government websites and financial institutions, stirring panic about the public's ability to access official information as well as their own bank accounts. Meanwhile, behind the scenes, Russians were targeting European satellite company Viasat as well as several other satellites across Europe, disrupting Ukrainian military communications temporarily. Ultimately, those early, fairly unsophisticated public attacks were mostly unsuccessful in achieving long-term effects. Websites were quickly brought back online, and no one was prevented from withdrawing money for long. Ukrainian military officials were able to rely on alternative methods of communication. Even so, the attacks contributed to a sense of panic and unease in the early days of the invasion. Ultimately, Burt said, he believes Microsoft was able to alert Ukrainian media companies, for example, in the early phases of those attacks and help them install countermeasures. "Russia has not been successful in shutting down media communications to Ukrainian citizens," he concluded. Burt said that Microsoft has detected several examples of Russian hackers stealing information about Ukrainian cities in espionage-style attacks before launching physical attacks, likely in an effort to find information valuable to troops on the ground. There have also been combined cyberattacks and physical assaults on energy and IT infrastructure, from nuclear power plants to tech companies, Burt said. More recently, Burt told NPR, Microsoft has seen Russia targeting Ukrainian railways with both cyberattacks and missiles. In this phase of the invasion, there's an effort to disrupt Ukraine's ability to resupply and move vital goods around the country. Additionally, Microsoft noted that Russia is even weaponizing the trauma caused by their own military operations. Microsoft detected at least one operation in which a Russian actor pretended to be a victim from Mariupol, a sieged Ukrainian city, to try to spread disinformation about how Ukrainian officials had abandoned the city in an effort to pressure citizens to surrender. "And so we see, again, of course, sponsoring both the cyberattack and the kinetic attack in in support of what is clearly a hybrid war where the Russians are using all those resources in combination," Burt said. Microsoft has detected several examples of Russian hackers stealing information about Ukrainian cities in espionage-style attacks before launching physical attacks. Meron Menghistab for NPR Working with Ukrainians on the front lines On the ground in Ukraine, Ukrainian cybersecurity officials face a constant barrage. On Tuesday, Ukrainian mobile communications operations in the south in Kherson reported communication outages, which they linked to Russia. "It is not the first attempt to make it impossible for Ukrainian citizens in the temporarily occupied areas to get in touch with their loved ones, call an ambulance or rescuers, access the true information on the developments in the war and the situation in the country," representatives from the Ukrainian State Service of Special Communication and Information Protection said in a statement. It's a constant struggle. While Ukrainian officials were able to get communications back online by routing internet traffic through a Russian internet provider, according to Net Blocks, an organization that tracks internet disruptions, that opens those communications up to even further surveillance and disruption by Russia. Burt recalled one instance where his team was trying to alert one Ukrainian company to a possible cyberattack, when they received a message back that the company couldn't respond because the building was surrounded by Russian tanks. "If you are Ukrainian, this has been a relentless, unending cyber war that has been launched in correspondence with the physical war in what is clearly the world's first major hybrid war," said Burt.

Nobel Kinh tế 2025: Tăng trưởng bền vững và vài gợi ý cho Việt Nam

Nobel Kinh tế 2025: Tăng trưởng bền vững và vài gợi ý cho Việt Nam Lê Văn Cường, Phạm Ngọc Sáng Đối với Việt Nam - đang ở giai đoạn chuyển đổi, muốn bứt phá - những bài học từ các công trình đoạt giải Nobel Kinh tế 2025 rất đáng suy ngẫm: không thể chỉ “kỳ vọng chính sách vĩ mô” mà bỏ qua quá trình đổi mới ở cấp doanh nghiệp, không thể chỉ tập trung vào ứng dụng mà cũng cần đầu tư mạnh cho tri thức khoa học nền tảng, không thể để độc quyền công nghệ cản trở làn sóng mới.
Joel Mokyr (phải) đang trò chuyện với đồng nghiệp Robert Gordon, một nhà kinh tế hàng đầu thế giới về việc làm, phát triển bền vững, lạm phát tại khuôn viên Đại học Northwestern. Ảnh: Đại học Northwestern Giải Nobel Kinh tế năm nay được trao cho Joel Mokyr về việc xác định các điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng bền vững thông qua tiến bộ công nghệ, và Philippe Aghion và Peter Howitt vì đóng góp cho lý thuyết tăng trưởng bền vững qua phá hủy sáng tạo. Điểm lại lý thuyết tăng trưởng kinh tế Làm thế nào để một quốc gia phát triển thịnh vượng? Tại sao một số quốc gia lại phát triển hơn một số quốc gia khác? Đây là hai câu hỏi lớn không chỉ của ngành kinh tế học mà còn của các ngành khác. Kinh tế học, dựa trên nền tảng phân tích thiệt hơn giữa các lựa chọn (không chỉ của từng người riêng biệt mà còn của các tổ chức) đã đưa ra nhiều giải thích cho hai câu hỏi trên. Tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quyết định cho sự phát triển của xã hội. Có nhiều giải thích cho tăng trưởng kinh tế: dựa vào tài nguyên, dựa vào tích lũy vốn (hoặc tích lũy tư bản), dựa vào vốn con người, nhờ vào hội nhập và xuất khẩu, có các thể chế tốt, có khoa học và công nghệ phát triển, … Trước khi nói đến đóng góp khoa học của Joel Mokyr cùng với Philippe Aghion và Peter Howitt, ta điểm qua một vài lý thuyết tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người của một nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có lượng vốn, lượng lao động. Tuy nhiên, Robert Solow (người được trao giải Nobel Kinh tế năm 1987 cho những đóng góp trong lý thuyết tăng trưởng kinh tế), chỉ ra rằng lượng vốn và lượng lao đaộng không phải yếu tố quan trọng nhất mà chính là năng suất các nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity, TFP, ta gọi tắt là năng suất tổng hợp). Mặc dù Solow có nhiều công trình quan trọng, ta chỉ kể một trong số đó. Đó là công trình nghiên cứu xuất bản năm 1957 ở tạp chí Review of Economics and Statistics. Solow dùng dữ liệu của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1909-1949, và chứng minh rằng đóng góp vào tăng trưởng GDP bình quân đầu người của năng suất tổng hợp là 87,8%, hơn hẳn so với đóng góp của lượng vốn và lượng lao động. Solow cho rằng năng suất này đến từ những tiến bộ khoa học và công nghệ. Vậy thì tiến bộ công nghệ từ đâu mà có? Paul Romer lập luận rằng tiến bộ công nghệ đến từ tri thức và những ý tưởng sáng tạo. Tri thức (ví dụ như các phép tính, các định lý toán học hoặc hoặc vật lý) khác với máy móc, ở chỗ bất kỳ ai cũng có thể sử dụng cùng lúc, mà hầu như không bị hạn chế. Như vậy, tri thức có thể được khuếch đại rất lớn và nhờ đó có thể tạo ra những tri thức mới, công nghệ mới và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, một cách quản lý tốt hơn được tìm ra, có thể được dùng trên toàn quốc và làm cho các quá trình sản xuất tốt hơn, tạo tăng trưởng kinh tế. Philippe Aghion nhận bằng Tiến sĩ danh dự tại Đại học Stockholm vào cuối tháng 9/2025. Ảnh: Đại học Stockholm. Giải Nobel kinh tế 2025 Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội hiếm khi là một quá trình giản đơn. Không phải cứ có một ngành khoa học phát triển là tự động tạo ra sự phát triển kinh tế và thịnh vượng của xã hội. Sử gia kinh tế Joel Mokyr tại Đại học Northwestern (Mỹ), bằng cách nhìn lại lịch sử, đã chỉ ra những cơ chế mà những tiến bộ khoa học và ứng dụng khoa học có thể tạo ra sự tăng trưởng bền vững và liên tục. Bên cạnh đó, có những trường hợp (ở Trung Quốc, Hy Lạp, Rome cổ đại, …) mà một số tiến bộ khoa học và công nghệ đơn lẻ, mặc dù xuất hiện nhưng không nhất thiết tạo ra sự phát triển kinh tế.1 Mokyr trong một công trình của ông vào năm 2005, đưa ví dụ, đó là khi làm nông nghiệp mà không hiểu sâu về khoa học đất, khai thác mỏ mà thiếu địa chất học, thực hành y tế mà thiếu sinh vật học và miễn dịch học. Như vậy, từ khoa học đến sự phát triển kinh tế, cần nhiều ngành cùng phát triển để bổ trợ lẫn nhau và cần nhiều bước trung gian (khám phá khoa học, tạo ra ứng dụng và công nghệ, giới thiệu và phổ biến công nghệ, và cuối cùng là áp dụng vào các quá trình sản xuất). Hai nhà kinh tế học Philippe Aghion (đang làm việc tại Collège de France và INSEAD), và Peter Howitt (Brown University), có cách tiếp cận khác với Joel Mokyr. Aghion và Howitt, trong công trình mang tính đột phá đăng ở tạp chí Econometrica năm 1992, xây dựng một khung lý thuyết để giải thích tăng trường kinh tế bằng cách phân tích quyết định của doanh nghiệp thông qua sự phá hủy mang tính sáng tạo (creative destruction), vốn gắn với tên tuổi của Joseph Schumpeter từ những năm 1940. Theo Aghion và Howitt, việc tạo ra công nghệ mới đồng thời sẽ thay thế và loại bỏ các công nghệ lỗi thời. Theo Joel Mokyr, từ khoa học đến sự phát triển kinh tế, cần nhiều ngành cùng phát triển để bổ trợ lẫn nhau và cần nhiều bước trung gian (khám phá khoa học, tạo ra ứng dụng và công nghệ, giới thiệu và phổ biến công nghệ, và cuối cùng là áp dụng vào các quá trình sản xuất). Còn theo Aghion và Howitt, việc tạo ra công nghệ mới đồng thời sẽ thay thế và loại bỏ các công nghệ lỗi thời. Công nghệ mới ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những máy móc mới, cách làm mới, ý tưởng mới mà có thể ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Công nghệ mới ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những máy móc mới, cách làm mới, ý tưởng mới mà có thể ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp quyết định đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) để tạo ra đổi mới (innovation) và tạo ra công nghệ mới. Vì doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận, quyết định của họ phụ thuộc vào rủi ro bị thay thế (bởi các doanh nghiệp khác) và sự chênh lệch lợi nhuận giữa công nghệ mới và công nghệ cũ. Công nghệ mới xuất hiện có thể thay thế công nghệ cũ, nhưng cũng có thể sẽ bị thay thế bởi công nghệ mới hơn trong tương lai.2 Về lâu dài, tốc độ tăng trưởng sẽ phụ thuộc vào quy mô đổi mới, lực lượng lao chất lượng cao và năng suất nghiên cứu. Khung lý thuyết này sau đó được phát triển và sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau của kinh tế học, như tác động vĩ mô của cấu trúc thị trường, các làn sóng công nghệ, sự phát triển của những doanh nghiệp, … Những bằng chứng thực nghiệm cũng cho thấy sự vững vàng của khung lý thuyết này. Philippe Aghion và Peter Howitt cũng nhấn mạnh rằng yếu tố con người là không thể thiếu trong đổi mới sáng tạo (xem Aghion & Howitt, 2024). Vài gợi ý cho Việt Nam Hiện tại, Việt Nam đang cố gắng thúc đẩy Đổi mới Sáng tạo (ĐMST). Xuất phát từ các công trình trên, trong bối cảnh Việt Nam, ta có thể đề cập đến một số yếu tố sau. (Bạn đọc có thể tham khảo thêm những phân tích chi tiết hơn trong bài của Lê Văn Cường và cộng sự, đăng ở Tia Sáng, số ra ngày 20/6/2025). Hỗ trợ đầu tư R&D có chiến lược, nhưng không chỉ “đặt hàng” từ Nhà nước. Theo mô hình Aghion–Howitt, tốc độ đổi mới và tăng trưởng dài hạn phụ thuộc vào tần suất đổi mới và độ nhảy công nghệ trung bình. Việt Nam nên ưu tiên chính sách hỗ trợ R&D không chỉ cho các đơn vị nhà nước mà khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia đổi mới, phối hợp giữa trường đại học – viện nghiên cứu – doanh nghiệp. Cần thiết kế cơ chế tài trợ (subsidy) có điều kiện, thúc đẩy cạnh tranh trong R&D, ưu đãi thuế cho hoạt động ĐMST, và thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa (spillovers). Cạnh tranh “lành mạnh” – hạn chế độc quyền công nghệ Trong mô hình phá hủy sáng tạo, nếu doanh nghiệp nào nắm độc quyền công nghệ và dễ “kìm chân” doanh nghiệp tiếp theo, đổi mới sẽ bị cản trở. Vì vậy, Việt Nam nên tăng cường thực thi luật cạnh tranh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ra nhập thị trường, và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, chào đón các doanh nghiệp công nghệ cao nước ngoài ; đây cùng là một áp lực tích cực buộc đổi mới trong nước. Phát triển văn hóa “khoa học, công nghệ và đổi mới” Mokyr nhấn mạnh kiến thức hữu ích và năng lực kỹ thuật là điều kiện cần. Nếu người lao động thiếu hiểu biết công nghệ, thiếu nền tảng vững vàng, thiếu tinh thần cởi mở, thì tính đổi mới khó lan tỏa. Việt Nam cần tập trung cải cách giáo dục đại học, đào tạo STEM, khuyến khích liên ngành (khoa học – kỹ thuật – quản trị) để không chỉ đào tạo nhân lực mà còn tư duy đổi mới. Ngoài ra, thúc đẩy văn hóa chấp nhận thay đổi, tự do học thuật, khuyến khích nghiên cứu nền tảng, không chỉ ứng dụng ngắn hạn. Chọn lĩnh vực chiến lược để có “bước nhảy công nghệ” – ưu tiên ngành có lợi thế cạnh tranh Với tình hình hiện tại, Việt Nam khó có thể đổi mới mọi lĩnh vực cùng một lúc. Dựa vào năng lực hiện có (lao động tương đối trẻ, chi phí thấp, kết nối quốc tế), có thể chọn một số lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, điện tử, phần mềm, năng lượng tái tạo để “bước nhảy” trước. Trong các ngành này, việc đầu tư mạnh vào R&D, thu hút các startup đổi mới, tạo hệ sinh thái hỗ trợ sẽ dễ tạo ra các bước nhảy công nghệ. Kích thích sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và startup Doanh nghiệp nhỏ thường linh hoạt, dễ thử nghiệm mô hình mới. Nếu cơ chế hỗ trợ, tài chính rẻ (vốn mạo hiểm, quỹ đổi mới sáng tạo, ưu đãi thuế) được mở ra, nhiều startup có thể trở thành những nòng cốt đổi mới nhỏ để “phá hủy sáng tạo” – tạo động lực và áp lực đổi mới cho nền kinh tế. Đo lường đổi mới sáng tạo thông qua dữ liệu Cần xây dựng hệ thống đo lường đổi mới sáng tạo, theo dõi tần suất sáng chế, đăng ký bản quyền, đầu tư R&D theo ngành, để phát hiện “các ngành trì trệ” hoặc “các nút cổ chai đổi mới” mà ra chính sách nhắm đúng vào đó. Đổi mới sáng tạo phải hướng đến người dân ĐMST phải phục vụ nhu cầu nhân sinh, giúp người dân sinh hoạt kinh tế có hiệu quả hơn, ít vất vả hơn. Nên quan tâm đến nhóm dân cư nghèo, không có điều kiện tiếp cận công nghệ mới. Phải tạo điều kiện cho mọi thành phần đựơc đào tạo, không bị rào cản vì vấn đề tài chính. Nếu không, công cuộc đôi mới sẽ không “tối ưu” vì có nhiều người có năng khiếu nhưng bị rào cản vì chi phí học hành, hoặc ở nông thôn xa những đại học chất lượng cao. Cũng không nên chỉ tập trung đổi mới trong lĩnh vưc kinh tế kỹ thuật. Ta cũng nên sử dụng đổi mới sáng tạo để phát triển các lĩnh vực văn hóa, âm nhạc, hội họa, thể thao. *** Nobel Kinh tế 2025 dành cho Joel Mokyr, Philippe Aghion và Peter Howitt là minh chứng rõ ràng rằng trong thế kỷ XXI, yếu tố đổi mới sáng tạo (innovation) — không phải chỉ số lượng vốn hay số lượng lao động — là động lực quyết định cho tăng trưởng bền vững. Mokyr cung cấp khung lịch sử, văn hóa, thể chế làm nền tảng cho đổi mới; Aghion–Howitt cung cấp mô hình lý thuyết để liên kết hành động đổi mới vi mô đến tăng trưởng vĩ mô. Đối với Việt Nam – đang ở giai đoạn chuyển đổi, muốn bứt phá – những bài học từ các công trình này rất đáng suy ngẫm: không thể chỉ “kỳ vọng chính sách vĩ mô” mà bỏ qua quá trình đổi mới ở cấp doanh nghiệp, không thể chỉ tập trung vào ứng dụng mà cũng cần đầu tư mạnh cho tri thức khoa học nền tảng, không thể để độc quyền công nghệ cản trở làn sóng mới. ———– 1. Xem thêm những lập luận và bằng chứng ở cuốn sách của Mokyr (1990). 2. Hẳn nhiên, không phải ai cũng chào đón đổi mới. Thật vậy, những nhóm hưởng lợi từ một công nghệ, có thể bao gồm cả doanh nghiệp mà lúc trước đã tạo ra công nghệ này, sẽ không muốn thấy công nghệ của họ bị thay thế bởi công nghệ từ doanh nghiệp khác. Do vậy, cạnh tranh bình đẳng có vai trò quan trọng. Bài đăng Tia Sáng số 20/2025

Saturday, October 25, 2025

Dương Chấn Ninh (Chen Ning Yang) qua đời

20 Tháng Mười, 2025 Dương Chấn Ninh (Chen Ning Yang) qua đời NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI MỸ-TRUNG QUA ĐỜI Nguyễn Xuân Xanh DƯƠNG CHẤN NINH (CHEN NING YANG) https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-CNY.png?resize=528%2C390&ssl=1
Dương Chấn Ninh, một trong những nhà vật lý ảnh hưởng nhất. Ảnh của ông. Yang sinh ngày 1 tháng 10 năm 1922 tại Hefei, tỉnh Anhwei (Anhui), Trung Quốc. Dương không phải xuất thân từ “số không”, mà là con của một giáo sư toán, K.C. Yang, từng tốt nghiệp Ph. D tại Đại học Chicago rồi trở về TQ giảng dạy tại Đại học Tsing Hua (Thanh Hoa, Bắc Kinh) rồi sau đó tại Southwest Associated University (Liên kết Tây Nam), Kunming, tỉnh Yunan. Cuối năm 1945 Yang, lúc đó 23 tuổi, sang Hoa Kỳ và kỳ vọng được học với Enrico Fermi (giải Nobel 1938). Nhưng ông đã thất vọng khi biết rằng Fermi đã rời Columbia và bặt tăm âm tín. Sau một cuộc truy tìm kiệt sức cuối cùng ông biết rằng Fermi đang làm việc ở Đại học Chicago. Tại đây Yang đăng ký học vật lý hạt với Edward Teller, một ngành lúc đó còn rất mới mẻ, và sau khi tốt nghiệp tiến sĩ (1948) với Teller ông làm trợ lý cho Fermi một năm, đồng thời tiếp tục theo dõi ngành cơ học thống kê riêng cho mình. Giải Nobel nóng. C. N. Yang có rất nhiều đóng góp to lớn trong nhiều ngành của vật lý học thế giới. Nổi bật nhất là khám phá đã từng gây sửng sốt của ông và đồng nghiệp T.D. Lee, cũng là một Hoa kiều, về sự không bảo toàn đối xứng gương ở vật lý các tương tác yếu (non-conservation of parity in weak interactions only); tương tác này là một trong bốn tương tác căn bản của vũ trụ chịu trách nhiệm cho sự phân rã bêta (β-decay). Nghiên cứu của hai ông cho rằng tất cả những thí nghiệm trước đây về sự phân rã bêta (β-decay) là quá đơn giản để có thể kiểm tra tính bảo toàn đối xứng. Hai ông đề nghị một số thí nghiệm mới để kiểm chứng điều đó, trước sự hoài nghi của cả giới vật lý. https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-Lee-va-Yang.jpg?resize=659%2C359&ssl=1
Hai ông Dương (trái) và Lý lúc còn trẻ, trong thời kỳ giải Nobel. Chien-Shiung Wu (Ngô Kiện Hùng, 1912-1997), “First lady of science” https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-ba-Chien-Shiung-Wu-Ngo-Kien-Hung.png?resize=579%2C327&ssl=1
Nhưng chỉ nửa năm sau, đầu 1957, Chien-Shiung Wu (Ngô Kiện Hùng) đại học Columbia, một nữ chuyên gia nổi tiếng về sự phân rã bêta, cũng là người gốc Trung Quốc, đã dùng thí nghiệm với phương pháp đặc biệt để kiểm chứng ý tưởng mới của Yang và Lee, và đã chứng minh thật sự “Chúa thuận tay trái yếu”. Công bố kết quả của bà cho thấy sự bất đối xứng gương là không chối cãi được trong phân rã bêta! Tức là các hiện tượng vật lý và ảnh gương của chúng không diễn ra cùng định luật. “Thượng đế là một người thuận tay trái yếu”. Thế giới vật lý bàng hoàng. Schwinger đã nói với các thành viên nhóm hoạt động của ông: “Gentlemen, chúng ta hãy cúi mình trước (ý muốn của) tự nhiên”. Ngay trong cùng năm, 1957, Lee và Yang, ở tuổi 31 và 35, được công nhận nóng giải Nobel, là hai trong những người trẻ tuổi nhất (Heisenberg và Dirac được giải lúc 31 tuổi). Dư luận rất lấy làm tiếc là bà Wu, đôi khi được ví như một Marie Curie thứ hai, không được chia sẻ giải này. Ủy ban Nobel ở Stockholm đã tỏ ra mình ‘bất đối xứng’, ‘thuận dương’ hơn ‘thuận âm’! Và từ đó trở đi trong thế kỷ XX, bất đối xứng chiếm ngự tư duy các nhà vật lý hạt. Năm 1956/57 đánh dấu thời ‘hậu hiện đại’ trong vật lý hạt. Thế giới từ đây như đổi khác. Cuối cùng, các đối xứng P, C (điện tích) và T (thời gian) cũng bị phá vỡ. Chỉ có đối xứng liên kết CPT là đứng vững. Thực tế con người cũng là sản phẩm của bất đối xứng trong vũ trụ. https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-cua-Yang-Lee-tai-le-nhan-giai-Nobel.png?resize=617%2C477&ssl=1
Ông Dương (bên trái) cùng nhận giải Nobel Vật lý với Lý Chính Đạo (ở giữa) vào năm 1957. Nguồn: Associated Press “Tôi là sảnh phẩm của cả nền văn hóa Trung Hoa và phương Tây, trong hài hòa lẫn xung đột” Tại buổi tiệc Nobel năm 1957, Yang kể câu chuyện từ đâu ông đã đến Mỹ và có mặt hôm nay tại giải Nobel. Ông nói, khi giải Nobel được bắt đầu năm 1901 thì cuộc chiến Nghĩa Hòa Đoàn (Boxer War) cũng vừa chấm dứt. Trung Hoa bị buộc bồi thường cho liên minh phương Tây và Nhật Bản một số tiền lớn gây choáng váng. Khoảng mười năm sau đó, Yang nói, trong một “nghĩa cử rất Mỹ”, Hoa Kỳ quyết định trả lại Trung Hoa số phần tiền của họ cho Trung Hoa cho việc tài trợ xây dựng Đại học Thanh Hoa và một chương trình học bổng cho sinh viên để du học tại Hoa Kỳ, và “tôi là người hưởng lợi trực tiếp từ cả hai đề án này.” Yang nói tiếp, ông là “sản phẩm của cả nền văn hóa Trung Hoa và phương Tây trong hài hòa lẫn xung đột. Tôi muốn nói rằng tôi tự hào về di sản và xuất thân Trung Hoa của mình cũng như tôi cống hiến cho khoa học hiện đại, một phần của nền văn minh nhân loại có nguồn gốc phương Tây, mà tôi đã cống hiến và sẽ tiếp tục cống hiến công sức của mình.” Đó là tầm nhìn văn hóa của ông, cũng như hé lộ tình yêu của ông đối với quê hương của ông, điều sẽ giải thích sự trở về của ông để giúp nước trong những năm 1970. Cũng theo lời kể của ông, có khoảng hai mươi sinh viên của chương trình Bồi thường Nghĩa Hòa Đoàn của Hoa Kỳ đã bay từ Côn Minh đến Calcutta vào cuối tháng 8 năm 1945, sau đó lên một tàu sân bay chở quân của Mỹ vào cuối tháng 10, và đến New York vào cuối tháng 11. https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-Yang-Lee-voi-cac-nha-vat-ly-giai-Nobel.png?resize=591%2C499&ssl=1
Tám nhà vật lý giải Nobel tại Hội nghị Rochester 1960 ở Rochester, New York. Từ trái qua: E. Segrè, C. N. Yang, O. Chamberlain, T. D. Lee, E. McMillan, C. D. Anderson, I. I. Rabi, W. Heisenberg. (Ảnh của L. Cruzer) Yang có nhiều đóng góp quan trọng trong ngành vật lý như trong ngành vật lý thống kê và vật lý vật chất ngưng tụ. Năm 1954, cùng với Robert Mills, ông đã xây dựng Lý thuyết Chuẩn Yang-Mills, dẫn đến sự phát triển của Mô hình Chuẩn, khuôn khổ hàng đầu để hiểu biết về vật lý hạt. Lực điện từ và lực yếu chẳng hạn đã được thống nhất thành lực điện-yếu, bằng thuyết trường Yang-Mills. Công trình lý thuyết chuẩn là phát minh năm 1954 tại phòng thí nghiệm Brookhaven, một công trình “khai mở kỷ nguyên”, là hạt giống của Yang được gieo trước cả sự khám phá vi phạm đối xứng gương của C. N. Yang và T.D. Lee. Không những lực yếu, và cả lực mạnh, còn gọi là sắc động điện học lượng tử QCD, lực điều hành các quark, cũng dựa lên thuyết Yang-Mills. Hai lực, lực mạnh và lực điện-yếu đều có một nguồn gốc chung: thuyết Yang-Mills. Yang rất xứng đáng lắm một giải Nobel thứ hai cùng với Mills! Dĩ nhiên, Yang còn vô số đóng góp khác. https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-hoi-nghi-Singapore-ve-Yang-Mills-resized.png?resize=833%2C555&ssl=1
Ảnh hội nghị kỷ niệm 60 năm thuyết trường Yang-Mills tại Nanyang Technological University, Singapore, 25 -28 May 2015 (sách của các chủ biên L. Brink K. K. Phua, NXB World Scientific Về nguồn gốc ý tưởng của thuyết trường Yang-Mills, ông nói: Tôi đã chịu ảnh hưởng từ lời kêu gọi thống nhất các lực khác nhau trong tự nhiên của Einstein, và từ công thức đối xứng chuẩn của Weyl về điện từ, khi tôi còn là nghiên cứu sinh tại Chicago. Nhưng một động lực trực tiếp hơn đối với tôi là trong thập kỷ sau năm 1945, sự phát triển thú vị nhất trong vật lý là rất nhiều hạt cơ bản mới được khám phá bằng thực nghiệm. Chúng tương tác với các hạt cũ như proton, neutron, electron, và với nhau như thế nào? Đã có rất nhiều bài báo, cả lý thuyết lẫn thực nghiệm, về cách hạt này tương tác với hạt kia, cách các hạt Σ và Λ tương tác, v.v. Khi còn là nghiên cứu sinh tại Đại học Chicago, tôi nghĩ rằng cần có một nguyên lý chung về tương tác, và nguyên lý đó có thể xuất phát từ đối xứng chuẩn của Weyl. https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-Yang-va-Robert-Mills.jpg?resize=482%2C353&ssl=1
Hai ông C.N. Yang và Robert Mills https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-trang-viet-tay-cua-Yang.jpg?resize=615%2C796&ssl=1
Một trang bản thảo viết tay của Dương Chấn Ninh năm 1947 về thuyết trường chuẩn Có lần Yang nhớ lại một cuộc gặp gỡ với Einstein trong những năm 1950. Yang vừa xuất bản một bài báo trên tạp chí The Physical Review, và Einstein muốn thảo luận với ông. Họ đã nói chuyện trong một tiếng rưỡi, Yang kể lại theo New York Times, rằng ông “không thu được nhiều thông tin từ cuộc trò chuyện đó”, bởi “ông ấy nói rất nhỏ nhẹ”, “và tôi thấy khó tập trung vào lời ông ấy nói, vì quá choáng ngợp trước sự gần gũi của một nhà vật lý vĩ đại mà tôi đã ngưỡng mộ bấy lâu nay.” Yang nghi ngờ các nhà vật lý sẽ đạt được một lý thuyết về vạn vật. “Tự nhiên là vô cùng tinh tế”, ông nói. “Tôi tình rằng chiều sâu của các chất tự nhiên là điều mà con người không thể nào thấu hiểu được. Bởi vì xét cho cùng, chúng ta chỉ có, giả sử, 100 tỷ tế bào thần kinh. Làm sao bạn có thể sánh được với chiều sâu vô tận của tự nhiên?” Cuộc trở về Khi Yang được tôn vinh với giải Nobel, Chu Ân Lai tìm cách để kéo Yang về lại Trung Quốc. Yang từ chối. Nhưng khi Kissinger trở về từ Bắc Kinh sau một chuyến đi lịch sử khai thông quan hệ Mỹ-Trung năm 1971, thì chẳng bao lâu người bạn đồng hương vật lý Kerson Huang của ông nhận được lá thư bằng tiếng Hoa của Yang: “Trong giây phút trọng đại này, tôi đang ở trên chuyến máy bay hướng về Bắc Kinh.” Đó là thời cơ Yang muốn đóng góp cho Trung Quốc. Yang là người nổi tiếng đầu tiên về thăm Trung Quốc năm 1971 khi quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu tan băng, có nhiều nỗ lực để giúp cộng đồng vật lý Trung Quốc xây dựng lại không khí nghiên cứu và học thuật đã bị phá hủy bởi cuộc cách mạng văn hóa quá khích mà mọi người quá chán nản, muốn làm lại cái gì hoàn toàn mới theo chiều hướng lành mạnh của các nước phát triển để mong bắt kịp họ. Đó là môi trường đang rất thuận lợi như mảnh đất màu mỡ chờ đợi những người như Yang gieo hạt. Ông cùng với một cộng đồng Hoa kiều mạnh mẽ ở Hoa Kỳ làm cầu nối cho quan hệ văn hóa khoa học Hoa-Mỹ ngày càng phát triển. Không phải ông chỉ giúp cho Trung Hoa lục địa mà ông còn cộng tác thân thiện với Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc từ thời xa xưa trước đó khi các quốc gia này còn thù địch với Trung Quốc trong cuộc chiến tranh lạnh. Với sự dấn thân, cuộc đời ông bắt đầu một chương mới. Bằng cách tích cực thúc đẩy giao lưu văn hóa và hiểu biết lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc, Dương đã mở ra cánh cửa cho trao đổi nhân sự và hợp tác khoa học công nghệ giữa hai nước. Ông đã đưa sinh viên Trung Quốc sang học tập tại Hoa Kỳ, nơi được coi là nguồn đào tạo khoa học tiên tiến lớn nhất thế giới. Dương đã đến thăm Đại học Thanh Hoa nhiều lần, xuất phát điểm của ông thời sinh viên, luôn luôn trăn trở với việc củng cố khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản. Ông và lãnh đạo Thanh Hoa, Vương Đại Trung (Wang Dazhong), lúc bấy giờ là hiệu trưởng Đại học Thanh Hoa, đã nhấn mạnh đến hệ thống và mô hình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Cao cấp thuộc Đại học Princeton. Họ đi đến kết luận, rằng việc thành lập một viện nghiên cứu cao cấp là cấp thiết. Ngày 2 tháng 6 năm 1997 Viện Nghiên cứu Cao cấp của Đại học Thanh Hoa chính thức được thành lập, với Dương Chấn Ninh là giám đốc danh dự. Phát biểu tại lễ khánh thành, Dương kỳ vọng rằng viện sẽ có những đóng góp đáng kể cho khoa học và công nghệ quốc tế trong 10, 20 hoặc 50 năm tới. Ông lao vào việc đào tạo thế hệ mới, bắt đầu từ 2004, lúc đó ông 82 tuổi, giảng dạy môn Vật lý Đại cương cho bốn lớp sinh viên năm thứ nhất, soạn đề thi, và luôn có mặt trong phòng thi. Theo lời kể của sinh viên, lớp học luôn chật kín với hàng trăm, thậm chí gần một nghìn sinh viên cho mỗi bài giảng. Những người may mắn được ngồi, trong khi những người khác chen chúc ở hành lang hoặc bệ cửa sổ lớp học. Những người không thể chen chân vào lớp học cũng tụ tập quanh cửa sau hoặc cửa sổ lớp học để được nhìn thấy Dương đang giảng bài. Bên cạnh giảng dạy, ông Dương luôn thúc đẩy khoa học cơ bản ở Trung Quốc và phát triển tài năng tương lai. Năm 2009, một cuộc thảo luận mới lại nổ ra về mối quan ngại của nhà vật lý nổi tiếng Tiền Học Sâm (Hsue-Shen Tsien) – tại sao Trung Quốc không thể đào tạo ra những tài năng xuất chúng ngang tầm với các bậc thầy đầu thế kỷ XX ở phương Tây? Ngay sau đó, Đại học Thanh Hoa đã thành lập Lớp Vật lý đặc biệt, một phần của Chương trình Học đường Thanh Hoa, nhằm mục đích đào tạo các nhà vật lý đẳng cấp thế giới. Một trong những mối quan tâm lớn của ông Dương là giao lưu với thế hệ các nhà khoa học trẻ tiếp theo để truyền cảm hứng cho họ trong ngành vật lý. Tại một diễn đàn, trả lời câu hỏi của một học sinh trung học phổ thông về “làm thế nào để nuôi dưỡng và duy trì tinh thần đổi mới và sự tò mò”, ông Dương trả lời rằng nghiên cứu khoa học ở những vùng biên giới thường trải qua cả những giai đoạn khó khăn lẫn những giai đoạn tươi sáng. “Tôi nghĩ có hai tư duy rất quan trọng mà bạn phải đồng thời duy trì: Thứ nhất là không bỏ cuộc dù có chuyện gì xảy ra, và thứ hai là nếu bạn thực sự cảm thấy mình không thể tiếp tục nữa, bạn cần tìm cho mình một hướng đi mới”, ông nói. Quan điểm về làm khoa học https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/10/Anh-Tien-Hoc-Sam.png?resize=570%2C350&ssl=1
Tiền Học Sâm (Hsue-Shen Tsien) được xem là cha đẻ của chương trình hỏa tiễn và không gian Trung Quốc. Trước khi mất năm 2009, ông đã đặt câu hỏi: “Tại sao, kể từ năm 1949, các đại học Trung Quốc đã không sản xuất được một nhà tư tưởng hay một khoa học gia có những phát minh tầm cỡ thế giới?” Năm 1955, Tiền Học Sâm, một ngôi sao đang nổi tại Viện Công nghệ California (Caltech), đã bị Hoa Kỳ trục xuất với cáo buộc là đảng viên cộng sản. Trước khi lên tàu Cleveland President trở về Hồng Kông, Tiền đã phát biểu trước rất nhiều phóng viên tại bến cảng Los Angeles: “Tôi dự định sẽ làm hết sức mình để giúp người dân Trung Quốc xây dựng lại đất nước để họ sống có phẩm giá và hạnh phúc.” Vào năm 1991 khi tiếp đón một người bạn cũ ở Catech là Frank Marble tại Bắc Kinh, Tiền đã nói với giọng nhỏ nhẹ nhưng hoang mang và đậm vẻ bào chữa: “Này Frank, chúng tôi đã làm được nhiều điều cho Trung Quốc. Người dân đã có đủ ăn, họ có việc làm và đạt được nhiều tiến bộ. Nhưng họ không hạnh phúc.” (Xem Trung Quốc đã trở thành nước tư bản thế nào Tháng Tám, 2023) Liên quan đến câu hỏi của Tiền Học Sâm, nhận định sau đây trong một bài phỏng vấn ông là quan trọng: Theo tôi, sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc trong 40 năm qua là một thành công rực rỡ. […] Nhưng mô hình đó không phù hợp với sự phát triển của khoa học cơ bản, bởi vì các cuộc cách mạng trong khoa học cơ bản luôn bắt nguồn từ nỗ lực của một vài cá nhân, chứ không phải từ các dự án lớn. Điện từ học, thuyết Darwin, phân hạch, chất bán dẫn, chuỗi xoắn kép, penicillin, tất cả những cuộc cách mạng vĩ đại trong khoa học cơ bản này đều đến từ nghiên cứu của một vài cá nhân với ngân sách hạn hẹp, chứ không phải từ các dự án lớn. Tuy có big science, nhưng khám phá khoa học trong lịch sử không phải luôn luôn là công việc của tập thể, mà từ bao đời là của cá nhân, của những con người sống với “cô đơn và tự do” để nghiên cứu suốt đời mới có khoa học. Họ phải độc lập trong tư duy. Được yêu cầu cho lời khuyên của tuổi trẻ Trung Quốc, ông Dương nói: Tôi nghĩ, sinh viên trẻ Trung Quốc thường bỏ qua tầm quan trọng của sở thích cá nhân (their own interests), điều này có thể là do hệ thống văn hóa và giáo dục đặc thù của Trung Quốc. Họ được dạy phải tuân theo nhu cầu của xã hội, chứ không phải để khám phá và thực hiện sở thích của riêng mình. Vì vậy, tôi đề nghị sinh viên trẻ Trung Quốc nên chú ý hơn đến việc phát triển sở thích cá nhân. Trong khi đó, nếu bạn yêu cầu tôi đưa ra lời khuyên cho sinh viên Mỹ, tôi khuyên họ nên bớt quan tâm đến một số cái gọi là sở thích của mình và xem xét nhiều hơn đến các xu hướng phát triển chính của xã hội và khoa học. Tôi cho những lời khuyên đó cũng đúng cho tuổi trẻ Việt Nam hôm nay. Khoa học đòi hỏi tính cá nhân, individuality, hay character, biết tự chủ, và phát triển các mối quan tâm (sở thích) lành mạnh. Sự hình thành cá nhân ở các xã hội phương Đông rất chậm so với phương Tây. Quê nhà Năm 1950, ông Yang kết hôn với người vợ đầu là Chih Li Tu và có ba người con. Sau khi bà Tu qua đời năm 2003, ông kết hôn với người vợ thứ hai là Weng Fan (Ông Phàm), kém ông hơn 54 tuổi, ông 82, cô 28, một sinh viên tốt nghiệp tại Đại học Ngoại ngữ Quảng Đông. Họ gặp nhau lần đầu vào năm 1995 khi Weng còn là sinh viên trong một hội thảo vật lý. Yang gọi cô là “phước lành cuối cùng của Thượng đế” ban cho ông, có lẽ tiếp sức cho ông trong cuộc hành trình thứ hai tại quê hương. Trong ánh bình minh của đất nước mà ông Yang đã nhìn thấy, có phần đóng góp của ông. CUỘC TRIỂN LÃM EINSTEIN TẠI SHANGHAI NĂM 2019 Năm 2019 diễn ra cuộc triển lãm “Albert Einstein: “Cuộc sống trong bốn chiều không gian” tại Bảo tàng World Expo ở Thượng Hải, kéo dài từ ngày 2 tháng 8 đến ngày 22 tháng 10. Triển lãm trưng bày hơn 130 hiện vật gốc, bao gồm bản thảo và thư từ, lấy từ Thư viện Lưu trữ Albert Einstein tại Đại học Hebrew Jerusalem. Triển lãm trưng bày những thành tựu khoa học, cuộc sống cá nhân và ảnh hưởng văn hóa của ông, bao gồm cả phương trình nổi tiếng của ông: E = mc2 Chen Ning Yang là người phát biểu tại buổi khai mạc triển lãm. Ông vốn là người rất ngưỡng mộ Einstein. Khi nói đến Einstein, ông hết sức trân trọng. “Einstein là một nhà khoa học mà tôi vô cùng ngưỡng mộ. Ông ấy (và các công trình của ông ấy) đã có tác động sâu sắc đến vật lý và cuộc sống hàng ngày của chúng ta”, Yang phát biểu tại lễ khai mạc. Năm 2019 đánh dấu kỷ niệm 140 năm ngày sinh của nhà khoa học. Yang đã tham dự sự kiện này cùng với Hanoch Gutfreund, cựu hiệu trưởng trường Đại học Hebrew tại Jerusalem, nơi lưu giữ tất cả những tài liệu và hiện vật của Einstein. Hanoch Gutfreund, chuyên gia của Kho lưu trữ Albert Einstein thuộc trường đại học, và một nhà nghiên cứu Einstein, kỳ vọng triển lãm sẽ nâng cao hiểu biết của công chúng Trung Quốc về Einstein và khơi dậy niềm đam mê khoa học của giới trẻ. Một quyển sách về Albert Einstein làm guide-book luôn luôn đi kèm với các cộc triển lãm Einstein quốc tế, của hai tác giả Z. Rosenkranz và B. Wolff, cũng đã được dịch sang tiếng Trung để phục vụ cho triển lãm. Bức ảnh chụp Einstein và vợ Elsa cùng với chủ nhà thương gia Trung Quốc tại Thượng Hải năm 1922 có nhã ý chiêu đãi ông. (Ảnh do chinadaily.com.cn cung cấp) Einstein trên đường đi diễn thuyết tại Nhật Bản năm 1922 có ghé qua Thượng Hải, cũng như Singapore, và ông được một nhà giàu có ở Thượng Hải chiêu đãi. Một cuộc dàn xếp giữa Einstein và Thái Nguyên Bồi hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh để mời ông ghé nói chuyện tại Đại học Bắc Kinh rất tiếc bị thất bại vì những lý do kỹ thuật. Phòng làm việc của Einstein tại Kramgasse, Bern, Thụy Sĩ, được dựng lại Phòng triển lãm được thiết kế với “sự biến dạng thời gian và không gian” Cuộc triển lãm trên được một công ty tổ chức sự kiện ở Đài Bắc thực hiện. Họ chuẩn bị rất lâu và sau đó thực hiện cuộc triển lãm ở nhiều nơi tại Đài Loan rồi Trung Quốc. Tôi có liên lạc cả hai năm trời, hy vọng tìm được các đối tác trong nước để kéo triển lãm đó vào Việt Nam thì sẽ tiện. Nhưng “Thời cơ chưa tới”. Một cuộc triển lãm như thế chắc chắn sẽ có sức truyền cảm hứng vô cùng to lớn cho người xem, và đó sẽ là một vốn quý rất lớn cho cuộc hành trình vào khoa học để chấn hưng đất nước. Nhưng xã hội có lẽ chưa nhận ra cái vốn vô hình đó. Tình yêu khoa học không phải tự nhiên mà có, mà cần phải được xây đắp bởi nhiều bàn tay hiểu ý nghĩa của nó, lại càng rất khác biệt từ xã hội này sang xã hội khác, thời này qua thời khác. Nhà khai sáng Anh David Hume có nhận xét rằng: Việc lý giải sự trỗi dậy và phát triển của thương mại ở bất kỳ vương quốc nào cũng dễ dàng hơn là lý giải sự phát triển của sự học . … Lòng tham, hay ham muốn lợi nhuận, là một đam mê phổ quát, hoạt động mọi lúc, mọi nơi và đối với tất cả mọi người: Nhưng sự tò mò, hay tình yêu tri thức, có ảnh hưởng rất hạn chế, và đòi hỏi tuổi trẻ, thời gian rảnh rỗi, học vấn, thiên tài và tấm gương để chi phối bất kỳ ai … Trong khi đó: Những người vun đắp khoa học ở bất kỳ quốc gia nào luôn rất ít: Niềm đam mê chi phối họ rất hạn chế: Thị hiếu và phán đoán của họ rất tinh tế và dễ bị bóp méo: Và việc áp dụng chúng bị xáo trộn bởi những tai nạn nhỏ nhất. Do đó, sự ngẫu nhiên, hay những nguyên nhân bí ẩn và chưa được biết đến, chắc chắn có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và tiến bộ của tất cả các nghệ thuật tinh tế. — David Hume, 1742 Riêng xã hội phương Đông từng được thống trị thêm một quy luật khác cản trở tình yêu khoa học. Trong một đoạn văn nổi tiếng, người đứng đầu phái bộ Dòng Tên ở Bắc Kinh, Matteo Ricci, đã viết vào khoảng năm 1600 rằng ở Trung Quốc: Chỉ những người có bằng tiến sĩ hoặc bằng cử nhân mới được phép tham gia vào việc cai quản vương quốc … không ai sẽ nỗ lực để đạt được trình độ thành thạo về toán học hoặc y khoa nếu họ có bất kỳ hy vọng nào trở nên nổi bật trong lĩnh vực triết học [tức kinh điển]. Kết quả là hầu như không ai dành hết tâm huyết cho những nghiên cứu này … việc nghiên cứu toán học và y khoa bị coi nhẹ, bởi vì chúng không được thúc đẩy bởi danh dự như nghiên cứu triết học. (Matteo Ricci) Hy vọng sẽ có một thời cơ khác sẽ còn đến với Việt Nam. Nguyễn Xuân Xanh

Bảo Hiểm Y Tế Ở Mỹ --Các Sắc Luật Đã Ban Hành và Tình Trạng Suy Thoái Hiện Tại Của Các Quan Chức Chính Phủ

https://www.nguoi-viet.com/nvtv-tin-tuc/nvtv-tin-thoi-su/24-ngay-nuoc-my-te-liet-tu-vu-dong-cua-chinh-phu-den-du-luat-50/ Tốt nhất không nên làm chính trị. Nếu có phải dính líu đến chính trị thì hãy làm chính trị vì quần chúng nhân dân. Lời học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên BS Đỗ Hồng Ngọc khi ông còn đi học

Thursday, October 23, 2025

Một Năm Sống Trong Đại Dịch

Khi một chủng virus corona mới bị phát hiện ở thành phố Seattle thuộc tiểu bang Washington nước Mỹ vào ngày 21 tháng giêng năm 2020, nhiều người dân Mỹ vẫn không quá quan tâm lo ngại về nó. Mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường từ sau Christmas 2019 và Tết dương lịch cho đến tháng ba 2020. Lúc đó tin tức trên truyền thông dòng chính và đại đa số người dân ở Mỹ chỉ chú ý nhiều đến việc Quốc hội luận tội tổng thống đương nhiệm tên Trump, hơn là chuyện con virus corona đang lan tràn trên khắp thế giới, dù thực sự con virus này đã có mặt ở nhiều tiểu bang từ bờ đông sang bờ tây nước Mỹ. Mãi đến khi tổ chức y tế quốc tế WHO tuyên bố có đại dịch Covid 19, họ mới giật mình. Nỗi lo âu sợ hãi của người Mỹ thực sự bắt đầu ngày 21 tháng 3 tức là đúng hai tháng sau khi ca đầu tiên xuất hiện ở Mỹ, khi tổng thống tuyên bố tình trạng "quốc gia lâm nguy", cần khẩn cấp phòng chống lại dịch bệnh Covid 19. Theo trang web của đại học Johns Hopkins [https://coronavirus.jhu.edu/] tính đến ngày 17 tháng 3, 2020 toàn nước Mỹ đã có 4.661 ca nhiễm, với 85 người chết và 17 ca phục hồi. Ngày 19 tháng 3, 2020 Mỹ có 10.442 ca nhiễm và 150 người chết. Số ca nhiễm ngày càng tăng nhanh từ giữa tháng 3, nhất là tại các thành phố lớn, đông dân như New York và Los Angeles. Tình trạng thiếu hụt trang bị y tế và giường bệnh trở nên thực nghiêm trọng, vì Mỹ lâu nay không sản xuất mà lệ thuộc nước ngoài về nguồn cung cấp thiết bị y tế căn bản giúp phòng vệ cá nhân. Một số nơi xảy ra trường hợp người bệnh chết phải nằm ngoài hành lang bệnh viện. Các bệnh viện, cụ thể ở New York, không còn chỗ chứa xác người chết vì Covid, phải dựng lên "nhà xác đông lạnh dã chiến" gần bên. Có một số trường hợp nhân viên y tế bị nhiễm bệnh và chết, hay tự tử vì chịu không nổi áp lực của công việc. Cách đây đúng một năm, ngày 19 tháng 3, 2020, toàn thế giới có 240.119 ca nhiễm, và 9.819 tử vong. Hôm nay con số đó đã lên đến 122.233.417 ca, với số người chết vì Covid 19 là 2.700.128. Một vùng ngoại ô có khoảng 14.000 người nằm ven hồ Michigan, cách Chicago, Illinois, hai giờ lái xe freeway, đến cuối tháng ba năm 2020 chỉ có 10 ca nhiễm; vậy mà đến ngày 15 tháng 3 năm 2021 vừa rồi, số nhiễm ở đây đã lên đến ̣949 ca. Thống đốc một tiểu bang vùng Midwest phải ban lệnh "Safer At Home Order," hiệu lực từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 25 tháng 4; rồi sau đó lệnh gia hạn thêm đến ngày 26 tháng 5. Tháng 3 đến tháng 6 mọi người đề cẩn thận đề phòng: người ta đổ xô mua giấy vệ sinh, thức ăn để lâu như các loại đồ hộp, nước sát khuẩn....Đường phố vắng vẻ, vì ít ai dám ra đường. Nhiều gia đình may các loại khẩu trang để tự dùng hay gửi cho các bệnh viện đang thiếu hụt. Đến khoảng hè, cỡ tháng 6, 7, tình hình có vẻ khả quan hơn, dù người ta đổ ra đường biểu tình sau cái chết của George Floyd ngày 25 tháng 5,2020, vì George bị một cảnh sát da trắng đè đầu gối lên cổ làm anh ta ngạt thở. Hết vụ biểu tình này kéo sang vụ biểu tình khác. Tình hình tập trung đông người đó càng khiến nhân viên y tế lo ngại dịch bệnh sẽ lan tràn mạnh. Và cứ thế open and lockdown luân phiên nhau diễn ra. Còn người dân thì cứ hunker down, tử thủ, không dám đi đâu, trừ những người cho rằng corona virus và bệnh Covid-19 chỉ là trò lừa bịp, là "fake" và là trò chính trị "political" mà thôi. Một số chống việc đeo khẩu trang, giữ khoảng cách. Có người vào bệnh viện vì Covid 19, được bác sĩ y tá giúp trị lành rồi, khi sắp xuất viện lại hỏi y tá: "Is this fake news?"/"Đây có phải tin giả không?" Nhiều bác sĩ, y tá nhiễm bệnh đã tử vong, đồng nghiệp của họ đau sót, tự quay video post lên social media, để cảnh báo mọi người cho thấy đây là chuyện thật, và khi mắc bệnh này, người bệnh bị ngạt thở ra sao....Nhưng vẫn có những người khư khư cho rằng không phải vậy, "chỉ là chuyện phịa" của bọn "cánh tả." Con số người nhiễm và chết vì corona virus cứ thế tăng dần. Rồi các cuộc vận động tranh cử, rồi lây lan thêm...rồi lại biểu tình giữa các nhóm pro/ủng hộ và con/chống việc phong tỏa/lockdown.... Ngày bầu cử Quốc hội và tổng thống Mỹ sắp đến, nhiều vấn đề chính trị lại nổ ra. Khi đi bộ trong vùng cư ngụ, chúng tôi thấy có nhiều bảng được đựng lên trên sân cỏ nhà dân thật độc đáo: "BYEDON," "Worst President ever," "Any adult that is not insane." "trump 666,"[ba số này có nghĩa là quỷ satan] và vô vàn hình vẽ độc đáo nói lên nỗi bất bình của người dân Mỹ về tổng thống lúc ấy. Ấy vậy mà kết quả bầu cử lại cho thấy gần một nửa số người ủng hộ ông ta. Người ta nói rằng ở các vùng rural/miền quê người da trắng, phần lớn thất học, bầu cho ông ấy nhiều. Người giàu có, nhất là thiểu số tỉ phú, "top 1%," thì sống khu an tòan, biệt lập ngay tại khu nhà giàu sang/biệt phủ, hoặc đi du lịch trên các du thuyền sang trọng đến những ốc đảo yên lành, tươi mát, ăn uống tận hưởng các lạc thú cuộc đời giữa đại dịch. Rồi lại biểu tình phản đối kết quả bầu cử. Rồi lại lây lan. Số chết tăng lên 400.000 tại Mỹ khi ông tổng thống mới vào Nhà Trắng. Và người ta được yêu cầu đeo khẩu trang, giữ khoảng cách, rửa tay thường xuyên. Rồi cha mẹ con cái phải thích nghi với tình hình khó khăn: làm việc, hoc hành online, không được tự do đi lại, tiếp xúc...nhưng vẫn có người xé rào không muốn tự do cá nhân bị xâm phạm. Vài chính trị gia, nhà đại tư bản, ngay cả tổng thống Mỹ cũng bệnh Covid, phải vào bệnh viện, nhưng họ không sao cả, vì, dù chưa có vaccine, nhưng họ được tiêm chích, điều trị bằng antibodies, được chăm sóc kịp thời và chu đáo. Và khi ra bệnh viện, họ cởi bỏ khẩu trang: không có gì phải lo sợ. Nước Mỹ và dân Mỹ muốn thế: individualism, self-interest cao; enjoy life first, short-term thinking, risk-taking behaviors tràn lan. Đáng buồn là người ta đã chính trị hóa và thương mại hóa Covid 19, trong khi coi nhẹ mạng sống con người và những gía trị đạo đức căn bản của xã hội loài người. Đại dịch, cũng như các khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội khác, thường bộc lộ tất cả những cái xấu xa, thối nát nhất của xã hội. Nhưng rồi vẫn còn có cái tốt lành tồn tại. Quả thật cái Thiện không thể bị hủy diệt. Dù tạm thời cái Thiện tưởng như biến mất, nhưng kỳ thực, nó chỉ ẩn khuất đâu đó. Trải qua bao sóng gió, giông tố, nền dân chủ Mỹ, dù có bị thử thách đến chao đảo, rung rinh, thật mong manh đấy, nhưng vì cội rễ của nền dân chủ ấy đã bám quá sâu, quá rộng, quá chắc --từ thời các triết gia gạo cội của văn minh Hy lạp-La mã đến cận đại như Cách mạng Pháp, Cách mạng giành độc lập của Mỹ, hai thế chiến đẫm máu, các cuộc chiến chống độc tài, phát xít, thực dân, đế quốc, các tư tưởng tiến bộ cận đại, đương đại, lan tỏa từ Cựu thế giới/Old World sang Tân thế giới/New World--nền dân chủ ấy ắt phải bền chắc và vẫn phải tồn tại. Đến tháng 2, tháng 3 năm 2021, nước Mỹ hồi sinh dần sau khi có tổng thống mới, được số đông dân chúng ủng hộ. Ánh sáng dường như đã loé lên chút ít ở cuối đường hầm.

Monday, October 20, 2025

Hurricane Helene --Online vs. Reality: Did Hurricane Helene Really Destroy One-Third of the Appalachian Trail?

https://www.outsideonline.com/outdoor-adventure/hiking-and-backpacking/appalachian-trail-hurricane-helene-damage/ Did Hurricane Helene Really Destroy One-Third of the Appalachian Trail? Our hiking columnist phoned up experts along the iconic pathway to get a sense of the destruction left by Hurricane Helene Published: Oct 4, 2024 Grayson Haver Currin Grayson Haver Currin is Outside’s thru-hiking expert. He has written for Pitchfork, The New York Times, Rolling Stone, NPR, and The Washington Post. He and his little family are currently roaming the continent by Sprinter. On Tuesday morning, three days after Hurricane Helene ravaged swaths of the Southeastern United States, I began making calls to old friends and hiking experts who live along the Appalachian Trail. I had seen the drone footage of Hot Springs, North Carolina—a place I called home for years and one of the few towns the 2,200-mile trail bisects via sidewalk—drowned in the brown waters of an incoming creek and the mighty French Broad. I had seen images of the collapsed bridge in Erwin, Tennessee, which leads just past one of the trail’s famous hostels and from one sweeping ridgeline to another. And I had seen the curving creekside highways near Damascus, Virginia, one of the trail’s spiritual epicenters, cracked in pieces like overcooked pecan brittle. I had seen reports of the 220 dead and many more missing. Communities of longtime friends were entirely marooned, and little towns I’d cherished as a lifelong Southerner were ripped open like wet cardboard boxes. I asked them about the state of the trail—a pathway that has changed so many lives (including my own). I assumed the worst, that it was either washed away or buried by landslides in extended stretches. Online prognosticators didn’t improve my assumption. “One-third of this trail is destroyed,” a TikToker named tokkingwithstrangers2 said in a video that had gone viral by Wednesday. Using a map of the AT as her greenscreen, she speculated about the devastation. “This catastrophic storm is actually going to change the map of North Carolina and Tennessee, the actual topography.” But my phone calls yielded a surprise. As best as anyone can tell right now, the claims of complete destruction aren’t true, either for the AT or for the half-dozen other long-distance trails that radiate through the lower reaches of some of the world’s oldest mountains. Misinformation and assumptions based on that request—and then broadcast for TikTok likes—make a bad situation worse, unnecessarily adding to the weight of a region’s already seismic loss. The Appalachian Trail is a point of pride for people there, for people in the midst of losing everything; saying it is destroyed based on no data adds insult to inestimable injury. While it is true that the Appalachian Trail Conservancy, the nonprofit that helps manage the path and the lands surrounding it, has advised hikers to stay off the southernmost 865 miles, or its lower third, it is not true that those miles are destroyed. Sources I spoke to talked of toppled trees, down branches, and flooding. A stretch of the Appalachian Trail damaged by recent floodwaters (Photo: Joshua Niven) https://cdn.outsideonline.com/wp-content/uploads/2024/10/Destruction2.jpg?width=768 “It should be posted that—on four miles of this 2,200-mile trail—there’s a lot of devastation. It’s four miles of flood devastation like I’ve never seen before,” Warren Doyle, a longtime AT expert and the person who’s hiked the AT more than anyone else ever, told me Wednesday afternoon. Doyle’s estimation takes in the stretches that pass through the towns hit the hardest along the trail. “But that doesn’t mean you close the whole trail down,” he said. The same seems to hold for the 286-mile Benton MacKaye Trail, which takes an alternate path through the Appalachians. “Nothing out of the ordinary—branches, limbs, and a few blowdowns,” the president of the trail’s association, Bob Cowdrick, told me late Wednesday of the trail’s southern half. He hopes to get eyes on the rest of it within two weeks. But information on trail conditions remains scant, as efforts to save lives and communities continue. In that light, the ATC’s request is reasonable. Joshua Niven and Amber Adams Niven live just outside of Hot Springs, the Appalachian Trail oasis 275 miles north of the southern terminal. Its famous outfitter has been ripped apart like a box of candy by a black bear. It is the Nivens’ favorite place in the world, Joshua tells me, and it will not be a functioning trail town for a while. The safety of its own residents, of course, is paramount now. But Niven can see the trail from his window, and he seems almost sanguine about its status. He and Amber are currently writing a four-volume chronicle of the trail for Falcon Guides; he ticks through the places in those first 865 miles that may be a problem and names surprisingly few—perhaps the Roan Highlands, where Tennessee, Virginia, and North Carolina meet, or maybe the steep embankments leading north out of Hot Springs itself. Like Doyle, he is concerned for the tiny Appalachian towns themselves but suggests workarounds for hikers. “Saturated trees—that’s always going to be a thing. But I haven’t seen anything that’s catastrophic that a hiker couldn’t navigate,” Joshua said, adding the caveat that there will likely be pockets where destruction is greater. “It might be unpleasant, given how many trees are there,” he said. “What’s the issue with hiking in woods that have trees down?” And there are, of course, a lot of trees. To put it in perspective, the highest point on the Appalachian Trail is Kuwohi, at 6,644 feet (The entire range tops out at 6,684.) There are many trailheads on the Pacific Crest Trail and the Continental Divide Trail higher than that. This means that the AT rarely exits treeline—that is the essence of its so-called “green tunnel.” It’s constantly passing through terrain where wet ground and even mild winds can clot the trail with a seemingly infinite number of downed trees. That’s the worry. Betsy Brown is the associate director of Friends of the Mountains-to-Sea-Trail, an 1,175-mile path that meets the AT atop Kuwohi before extending east toward the North Carolina coast. More than a third of the trail is currently closed, as employees await reconnaissance on its conditions. So far, one volunteer has been able to hike just two miles near the famous Blue Ridge Parkway, which has been plagued by landslides after the storm and is closed indefinitely. There were 27 new trees across it. That kind of cleanup will take time to complete. “The trees down is a huge problem,” says Brown. “But the bigger problem is that, in these more remote places, our volunteer crews are smaller, with vigorous retirees. Having to walk in with chainsaws and fuel is hard. And for now, they’re dealing with their own issues, just trying to get back to normal.” Communities along the AT have been ravaged, but the trail itself has suffered less-catastrophic damage (Photo: Joshua Niven) https://cdn.outsideonline.com/wp-content/uploads/2024/10/Destruction3.jpg?width=768 Indeed, time will be key to reversing the damage—not outright destruction, at least in most places—on the trail. Dan Ryan, who works with land stewards along the AT, outlined an extended process for clearing the trail of downed trees and fixing any sections where running water ripped it asunder. He told me that, over the next month, the National Forest Service and National Park Service will assess damaged areas and offer a report about what needs to be done where. Only then, Ryan said, can the ATC begin deploying its half-dozen volunteer trail crews to begin work. Restoring every mile, he said, may take years; some of its most beautiful places have been forever changed, as hiker and runner Sarah Baker recently noted at the Walnut Mountain trailhead, an exquisite bit of Appalachia. Ryan worries, too, about the damage so many newly downed trees might have on long-term ecosystem health, from new pests to wildfire risks. But they have to start somewhere. “Trail clubs are champing at the bit to get out and help,” Ryan said. “It won’t be a challenge of deploying resources, because those are in place, regardless. It’s just a matter of putting them where they need to be—in safe conditions, in the priorities those agencies have dictated to us.” While these agencies assess damage and determine how to address it, the ATC is advising that hikers—even southbound thru-hikers, with less than 1,000 miles left in their walks—to stay off trail. Visitors will require resources from towns simply trying to survive and rebuild, like Hot Springs. Again, this seems reasonable enough. But I also understand the perspective of Doyle, who sees the trail as an absolute avenue of liberation and is still more than miffed about the ATC’s stance on Covid-19 back in early 2020, when the trail was actually closed. “It is another liability-informed directive from the ATC,” he told me. “It’s an overreaction.” Still, even Doyle—perhaps the AT’s most important living evangelist—had to change his plans for the week when he learned how many trees had fallen near his home not far from flood-ravaged Damascus, Virginia, one of the epicenters of AT hiking culture. On Tuesday, he took five new students at his Appalachian Trail Institute for a six-mile hike. I’ve done that walk in Doyle’s weeklong seminar before, and it takes a few easy hours. His students spent six arduous hours climbing over fallen trees. So on Wednesday, he dropped them off again, and told them to hike two hours in one direction, and then walk back to the car. The damage is extensive, he told me, but it can be overcome. “When they came out of the woods yesterday, they were talking and laughing. They worked as a team, and they learned a lot of important things about each other,” he said, sitting in his car, awaiting their return. “They experienced adversity.” Doyle knows, of course, that such adversity withers in comparison to what his neighbors are facing just down the mountain road. But he’s still proud to be teaching people to get ready to hike the AT, hopefully next year.

SO SÁNH TRUNG ĐẠO VÀ TRUNG QUÁN

Tịnh Thủy Source: Sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già Uruvela, một địa danh gần Bodh Gaya ngày nay, thân thể Đức Phật tiều tụy đến mức người ta tưởng Ngài đã chết. Ngài từng chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo mỗi ngày, ngồi thiền giữa giá lạnh, không tắm rửa, không nói chuyện. Ngài hy vọng bằng cách hành hạ thân xác, sẽ đạt được giác ngộ. Một hôm, khi đang thiền định bên bờ sông Ni Liên Thiền, Ngài nghe một người nhạc công dạy học trò cách lên dây đàn: “Nếu dây quá căng, nó sẽ đứt. Nếu quá chùng, nó sẽ không kêu. Phải lên dây vừa phải.” Ngài bừng tỉnh. Tâm linh cũng như dây đàn – không thể ép buộc, không thể buông lơi. Khổ hạnh cực đoan không dẫn đến trí tuệ, mà chỉ làm thân tâm kiệt quệ. Ngài nhận ra rằng phương pháp tu khổ hạnh cực đoan này không phải là con đường dẫn đến giác ngộ. Ngay hôm đó, Ngài từ bỏ khổ hạnh. Ngài nhận bát cháo sữa từ nàng Sujata, phục hồi sức khỏe, rồi ngồi dưới cội Bồ-đề, thiền định với tâm quân bình. Chính trong trạng thái ấy, Ngài đã chứng ngộ chân lý tối thượng – con đường Trung Đạo. – con đường vượt khỏi hai cực đoan. Đây chính là nền tảng cho mọi pháp hành và tư tưởng Phật giáo sau này. Từ ban đầu Trung Đạo mang ý nghĩa thực tiễn, liên quan đến lối sống và cách tu tập, nhấn mạnh sự cân bằng, không rơi vào cực đoan rồi sau phát triển thành Trung Quán mở rộng tri thức về Trung Đạo ở một cấp độ cao hơn, chuyên sâu hơn, mang tính triết học và biện chứng. Để so sánh Trung Đạo (Middle Way) và Trung Quán (Madhyamaka) trong Phật giáo, chúng ta cần hiểu rõ bản chất của từng khái niệm, nguồn gốc, ý nghĩa, và cách chúng được phát triển trong các truyền thống Phật giáo. Trung Đạo được thể hiện cụ thể qua Bát Chánh Đạo (Tám nhánh: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định), dẫn đến giác ngộ và giải thoát khỏi khổ đau (dukkha). Trong triết học Phật giáo, Trung Đạo (Middle Way) và Trung Quán (Madhyamaka) là hai khái niệm có liên quan chặt chẽ, nhưng chúng mang ý nghĩa và phạm trù khác nhau. Dưới đây là sự khác biệt giữa hai khái niệm này: 1. Trung Đạo (Middle Way): Trung Đạo là một nguyên tắc cốt lõi trong Phật giáo, được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đề xướng ngay từ bài pháp đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) sau khi Ngài thành đạo. Nó chỉ con đường trung dung, tránh hai thái độ cực đoan: hưởng thụ dục lạc (cuộc sống xa hoa, buông thả theo khoái lạc) và khổ hạnh tuyệt đối (ép xác, tự hành hạ cơ thể) trong việc thực hành và nhận thức. Trong bối cảnh thực hành, Trung Đạo là con đường tránh khổ hạnh cực đoan (tự hành xác) và dục lạc cực đoan (đam mê khoái lạc). Đức Phật đã nhận ra rằng cả hai thái cực này đều không dẫn đến giác ngộ và giải thoát. Về mặt triết lý, Trung Đạo là cách tiếp cận (approach) tránh rơi vào nhị nguyên (có/không, thường/đoạn, v.v.). Nó là nền tảng cho triết lý Trung Quán sau này. Trung Đạo được thể hiện qua Bát Chánh Đạo, hay con đường tám nhánh, là Tám con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy trong Phật giáo. Trung Đạo có ý nghĩa rộng hơn, không chỉ giới hạn trong triết học Trung Quán mà còn áp dụng trong mọi khía cạnh của giáo pháp Phật giáo, từ thực hành đến nhận thức. Ví dụ: Đức Phật từ bỏ lối sống xa hoa của một thái tử và sau đó từ bỏ khổ hạnh ép xác để tìm ra con đường trung dung, dẫn đến giác ngộ dưới cội bồ đề. 2. Trung Quán (Madhyamaka): Trung Quán là một trường phái triết học Phật giáo Đại thừa, được sáng lập bởi Ngài Long Thọ (Nāgārjuna) vào khoảng thế kỷ 2-3. Thuật ngữ Phật học "Trung Quán" có nghĩa là "quán chiếu về con đường trung đạo" hoặc "cái nhìn trung đạo". Được ngài Long Thọ phát triển dựa trên tư tưởng Trung Đạo của Đức Phật, đặc biệt từ các kinh Bát-nhã (Prajñāpāramitā) và kinh Tán-đà Ca-chiên-diên (Kaccāyanagotta) Trung Quán xuất hiện trong bối cảnh Phật giáo Đại thừa, khi các bộ phái Phật giáo tranh luận về bản chất của thực tại (như Nhất thiết hữu bộ chủ trương pháp có thật, hay Bà-la-môn giáo chủ trương trường tồn). Long Thọ dùng triết lý Tính Không để bác bỏ các quan điểm cực đoan về hữu và vô, xây dựng một hệ thống triết học chặt chẽ. Có thể nói, Trung Quán mở rộng Trung Đạo thành một hệ thống triết học, tập trung vào lý Duyên khởi (mọi hiện tượng đều phụ thuộc lẫn nhau) và Tính Không (không có bản chất độc lập). Long Thọ sử dụng khái niệm Bát bất (tám phủ định: không sinh, không diệt, không đoạn, không thường, không một, không khác, không đến, không đi) để bác bỏ mọi quan niệm cố chấp về thực tại. Trung Quán có tính triết học và nhận thức luận cao, nhắm đến việc phá bỏ mọi chấp trước về khái niệm và bản chất của thực tại. Trung Quán nhấn mạnh khái niệm Tính Không (Śūnyatā), tức là tất cả các pháp (hiện tượng) đều không có tự tánh (bản chất độc lập) và chỉ tồn tại dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau (duyên khởi). Trường phái này bác bỏ cả hai cực đoan: chấp có (thực tại là cố định, độc lập) và chấp không (thực tại là hư vô). Thay vào đó, Trung Quán đề xuất một cách nhìn vượt qua nhị nguyên, nhận thức rằng mọi hiện tượng đều là "không" (trống rỗng về tự tính) nhưng vẫn xuất hiện trong mối quan hệ duyên khởi. Mang tính triết học và nhận thức luận, Trung Quán phân tích bản chất của thực tại, bác bỏ các khái niệm nhị nguyên như có/không, thường/đoạn, nhằm đạt đến trạng thái bất nhị (non-duality) đạt được trí tuệ giải thoát. Ngoài ra, Trung Quán không chỉ hướng đến giải thoát cá nhân mà còn nhấn mạnh tinh thần Bồ-tát, cứu độ chúng sinh. Nói tóm lại: Trung Quán là một khái niệm triết học và lý luận, sử dụng tư tưởng Trung Đạo để phân tích bản chất của vạn pháp, chỉ ra rằng chúng không phải "có" cũng không phải "không" với mục đích giúp hành giả đạt được trí tuệ (prajñā) để nhận ra chân lý tối hậu, vượt qua mọi chấp trước và đạt giác ngộ. Ví dụ: Ngài Long Thọ trong tác phẩm Trung Luận đã phân tích rằng các pháp không tự sinh, không tha sinh, không cộng sinh, cũng không vô nhân sinh, từ đó khẳng định Tánh Không. Sự khác biệt chính: Tiêu chí Trung Đạo (Middle Way) Trung Quán (Madhyamaka) Nguồn gốc Do Đức Phật Thích Ca khai sáng, từ kinh nghiệm cá nhân. Do Long Thọ phát triển, dựa trên kinh Bát-nhã và tư tưởng Trung Đạo. Bối cảnh Phật giáo Nguyên thủy, nhấn mạnh thực hành. Phật giáo Đại thừa, nhấn mạnh triết học và nhận thức. Phạm vi Tập trung vào lối sống và tu tập (Bát Chánh Đạo). Tập trung vào triết học Tính Không và phá bỏ chấp trước. Cực đoan tránh Dục lạc và khổ hạnh. Chấp hữu (có thật) và chấp vô (không có thật). Mục tiêu Giải thoát cá nhân, đạt Niết-bàn. Giải thoát qua nhận thức Tính Không, cứu độ chúng sinh. Phương pháp Thực hành cụ thể, đạo đức và định lực. Luận biện triết học, sử dụng Bát bất và tứ cú. Trung Quán (triết học) được xây dựng dựa trên nền tảng của Trung Đạo (lối sống và triết lý ban đầu). Long Thọ đã mở rộng và làm sâu sắc thêm khái niệm Trung Đạo của Đức Phật, từ một nguyên tắc thực hành thành một hệ thống triết học hoàn chỉnh để lý giải bản chất của thực tại. Nói cách khác, Trung Quán là sự phát triển và mở rộng tri thức về Trung Đạo ở một cấp độ cao hơn. Trung Đạo là nền tảng chung, trong khi Trung Quán là một cách tiếp cận chuyên sâu, mang tính triết học và biện chứng. Là con đường thực hành cụ thể, đã được Đức Phật trình bày qua Bát Chánh Đạo, nhấn mạnh vào hành động, lời nói, và tư duy đúng đắn. Ví dụ: Chánh kiến là hiểu đúng về Tứ Diệu Đế, Chánh ngữ là lời nói chân thật, không gây hại. Trung Đạo không đi sâu vào phân tích siêu hình hay triết học phức tạp, mà tập trung vào việc hướng dẫn lối sống và thực hành tu tập. Kết Luận Trung Đạo là giáo lý nền tảng của Đức Phật, nhấn mạnh lối sống và thực hành cân bằng, tránh hai cực đoan dục lạc và khổ hạnh, được thể hiện qua Bát Chánh Đạo. Nó mang tính thực tiễn, dễ áp dụng trong đời sống. Trung Quán là sự phát triển triết học của Trung Đạo trong Phật giáo Đại thừa, do Long Thọ khởi xướng, tập trung vào Tính Không và phá bỏ chấp trước về hữu/vô, thường/đoạn. Nó mang tính triết học sâu sắc, phù hợp với những ai muốn khám phá bản chất của thực tại. Cả hai khái niệm đều hướng đến giải thoát, nhưng Trung Đạo là con đường thực hành, còn Trung Quán là công cụ triết học để đạt đến trí tuệ tối thượng. Biên tập: Tinh Thủy Hiệu đính: Tâm Diệu Đọc thêm: Các sách nói về Trung Đạo: - Kinh Chuyển Pháp Luân Tương Ưng Bộ, Dhammcakkappavattana Sutta - Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappa-Vattana Sutta) (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) - 06 Kinh Chuyển Pháp Luân - Bài Pháp Đầu Tiên - Sơ Lược Về Trung Đạo Trong Giáo Thuyết Phật Giáo (Thiện Phúc) - Nhập Trung Đạo: con đường Bồ Tát tích hợp đại bi và trí tuệ (bài 1) - Nhập Trung Đạo: Con đường Bồ tát tích hợp đại bi và trí tuệ (Bài 2) - Nhập Trung Đạo: Con đường Bồ tát tích hợp đại bi và trí tuệ (Bài 3) - Nhập Trung Đạo: Con đường Bồ tát tích hợp đại bi và trí tuệ (Bài 4) - Nhập Trung Đạo: Con đường Bồ tát tích hợp đại bi và trí tuệ (Bài 5) - Khái Niệm Trung Đạo Của Phật Giáo Nguyên Thủy Và Những Phát Triển Về Sau - Giáo Lý Trung Đạo (Thích Hạnh Bình) - Tinh Hoa Học Thuyết Trung Đạo Trong Phật Giáo (Thiện Phúc) - Con Đường “Trung Đạo” Từ Nguyên Thủy Sang Đại Thừa - Kinh Chánh Kiến, Hay Kinh Ca Chiên Diên (Kaccayanagotta) - Các sách nói về Trung Quán & Trung Luận: - Nghiên cứu Triết học Trung Quán (T.R.V. Murti - Thích Nhuận Châu dịch) - Nghiên Cứu Triết Học Trung Quán Tập I (T.R.V. Murti - Thích Nhuận Châu dịch) - Nghiên Cứu Triết Học Trung Quán Tập 2 (T.R.V. Murti - Thích Nhuận Châu dịch) - Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận (Thích Quảng Hợp) - Lịch Sử Tư Tưởng Và Triết Học Tánh Không (Thích Tâm Thiện) - Trung Luận - Bồ Tát Long Thọ (Thích Tâm Thiện) - Trung Luận – (Madhyamaka Sastra) (Thích Thiện Siêu) - Trung Luận (Thích nữ Chân Hiền) - Trung Luận (Thích Viên Lý) - Trung Quán Luận (Đại Sư Ấn Thận - Thích Nguyên Chân) - Trung Quán Luận (Cao Dao) - Tìm Hiểu Trung Luận (Hồng Dương) - Luận Giải Trung Luận, Tánh Khởi Và Duyên Khởi (Hồng Dương) - Đại Cương Về Triết Học Trung Quán (Thích Viên Lý) - Trung Luận - Bồ Tát Long Thọ (Thích Tâm Thiện) - Lịch Sử Tư Tưởng Và Triết Học Tánh Không (Thích Tâm Thiện) - Trung Quán Luận Kệ Tụng (Thích Tịnh Nghiêm) - Tìm Hiểu Trung Luận Nhận Thức Luận Và Không Tánh Trung Quán Luận - Đập Vỡ Vỏ Hồ Đào (Thích Nhất Hạnh) - Trung Luận Và Hồi Tranh Luận - Bồ Tát Long Thọ (Đỗ Đình Đồng) - Bài học tóm tắt trung quán luận (BBT) - Khảo sát Căn bản Trung quán luận tụng (Thích Nhuận Châu dịch) - Thánh Bồ Tát Long Thọ (Nhật Hạnh dịch) - Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng về Trung Quán Luận Giải (SC Thích Nữ Nhật Hạnh thông dịch từ Tạng ngữ sang Việt ngữ) - Nhập Trung Quán Luận (Ngài Nguyệt Xứng) - Nhập Trung Quán Luận (Ngài Nguyệt Xứng -Thích Hạnh Tấn dịch) - Nghiên Cứu Về Triết Học Tánh Không (Đại sư Ấn Thuận) - Trung Đạo -Trung Luận Và Trung Quán (Đại sư Ấn Thuận - Thích Nhuận Thịnh)

Can collagen supplements improve your skin? Here's what the research shows?

October 20, 20255:00 AM ET .... The evidence Let's start with skin. When it comes to skin health, there are studies that suggest collagen supplements work. "There have been randomized controlled trials that have shown that after 8 to 12 weeks of collagen supplementation, things like depth of wrinkles, skin elasticity, dermal thickness seem to be improved," says Dr. Maryanne Makredes Senna, an assistant professor of dermatology at Harvard Medical School. One meta-analysis of 19 studies published in 2021 found that, compared with a placebo, people taking collagen supplements had better skin hydration, elasticity and improvements in wrinkles. A second meta-analysis was published this year. It looked at 23 randomized controlled trials with more than 1,400 patients who took collagen supplements for skin issues, and it also found significant improvements in those same areas after 90 days. But Senna says those findings came with a big caveat: The studies that found the biggest improvements were lower-quality and were funded by the supplement industry, she says. "High-quality studies and studies not funded by industry did not show a significant association rate," Senna says. Given that, the state of the evidence when it comes to collagen supplements for skin is mixed at best, says dermatologist Lauren Taglia. "As physician-scientists, we would love to see studies done on a large scale and done independently," she says. ... The bottom line If it's healthier skin you're after, collagen supplements "could be helpful, but there's not a ton of strong evidence to support them at this point," Taglia says. Your best bet is to focus on things that do have robust evidence behind them, says Dr. Maya Jonas, an assistant professor of dermatology at the Ohio State University. That includes wearing sunscreen and other sun protection and using vitamin A-based products like retinol, which have been clinically proven to stimulate collagen production. Keeping your skin moisturized is also important. Lifestyle factors matter too, Jonas says. She recommends a diet rich in fruits and vegetables, which provide antioxidants like vitamin C, and nuts and seeds, which are good sources of zinc and copper and help support collagen production. "We always talk about diet, making sure patients are eating a healthy Mediterranean diet that's well-balanced, avoiding alcohol, not smoking and avoiding secondhand smoke," Jonas says. And get plenty of sleep and exercise, adds Senna. Poor sleep and stress can take a toll on skin, while exercise can improve blood flow to the skin and may help counteract the loss of elasticity and dermal thickness that comes with aging. That's not just good for skin, but overall health, too.

‘No Kings’ 18 Tháng Mười: Sức đề kháng mãnh liệt của nền dân chủ Mỹ

https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/no-kings-18-thang-muoi-suc-de-khang-manh-liet-cua-nen-dan-chu-my/ ‘No Kings’ 18 Tháng Mười: Sức đề kháng mãnh liệt của nền dân chủ Mỹ October 19, 2025 : 6:37 PM Trúc Phương/Người Việt Nước Mỹ lại xuống đường. Ngày 18 Tháng Mười, cuộc biểu tình quy mô mang tên “No Kings” đã được tổ chức tại khoảng 2,700 địa điểm khắp nước Mỹ. Những người tổ chức tuyên bố “No Kings” là tiếng nói vang vọng biểu thị quyền tự do ngôn luận, quyền tụ tập và các giá trị của Tu Chính Án Thứ Nhất. https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/10/No-King-00-2048x1153.jpg Biểu tình “No Kings” tại Washington DC ngày 18 Tháng Mười. (Hình: Trúc Phương/Người Việt) Nước Mỹ không bao giờ có vua! Tài tử gạo cội Robert De Niro nói: “Chúng ta từng chống vua chúa và giờ là lúc lặp lại. Cuộc biểu tình No Kings đầu tiên diễn ra cách đây 250 năm. Người Mỹ khi đó không muốn sống dưới ách cai trị của Vua George III và do vậy họ tuyên bố độc lập và đổ máu chiến đấu cho dân chủ. Chúng ta đã có hai thế kỷ rưỡi dân chủ, đầy thử thách, đôi khi hỗn độn, nhưng luôn cần thiết. Chúng ta đã chiến đấu qua hai cuộc thế chiến để bảo vệ nó. Giờ đây chúng ta chứng kiến cảnh có một kẻ muốn làm vua – Donald Đệ Nhất…” “Chúng tôi thể hiện sự đoàn kết để yêu cầu các đại diện dân cử đứng lên chống lại việc Trump lạm quyền hành pháp, hạn chế quyền lực của ông ấy, và giúp chúng tôi xóa bỏ chế độ này (nguyên văn “remove”) để khôi phục nền dân chủ trước khi quá muộn,” phát biểu của Hunter Dunn, phát ngôn viên liên minh chiến dịch biểu tình “No Kings 10/18”. Trong sự kiện “No Kings 10/18,” những cuộc biểu tình lớn nhất được tổ chức ở Washington, DC cùng hàng loạt thành phố Boston, New York, Atlanta, Kansas City, San Francisco, Chicago, New Orleans, Los Angeles… Các nhóm tham gia “No Kings 10/18” gồm: ACLU (Liên Đoàn Tự Do Dân Sự Mỹ), AFT (Liên Đoàn Giáo Viên Mỹ), Common Defense, 50501, Human Rights Campaign, Indivisible, League of Conservation Voters, MoveOn, National Nurses United, Public Citizen, Liên Đoàn Nhân Viên Dịch Vụ (SEIU), United We Dream… Tổng cộng có hơn 200 tổ chức quốc gia và hàng ngàn nhóm địa phương tham gia liên minh “No Kings 10/18.” Cuộc biểu tình “No Kings Day” đầu tiên diễn ra ngày 14 Tháng Sáu, với sự xuống đường rầm rộ trong ôn hòa của khoảng năm triệu người trên toàn quốc. https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/10/No-King-01-scaled.jpg?x78443 Biểu tình “No Kings” tại Washington DC ngày 18 Tháng Mười. (Hình: Trúc Phương/Người Việt) Các nghị sĩ Cộng Hòa đã lên án “No Kings 10/18,” gọi đây là “cuộc biểu tình thù ghét nước Mỹ.” Họ thậm chí nói rằng người biểu tình được trả tiền. “Đó toàn là bọn thân Hamas và đám antifa…,” Chủ Tịch Hạ Viện Mike Johnson nói trên Fox News. Ông nghị Cộng Hòa Tom Emmer cáo buộc đảng Dân Chủ đang “nuôi dưỡng cánh khủng bố trong chính đảng của họ.” Khó có thể tin rằng trong đám “thân Hamas,” lại có hàng triệu người Mỹ bình thường, từ nhà khoa học, giáo viên, cựu binh, sinh viên, bác sĩ, luật sư, giáo sư, rất nhiều người già hưu trí đến cả những em bé chưa đầy 10 tuổi… Và tất cả đều thể hiện sự phản kháng trong ôn hòa (dựa vào những gì quan sát tại Washington, DC ngày 10 Tháng Tám). Sự chống trả của nền dân chủ Mỹ Bất luận bị “dán nhãn” như thế nào, sự kiện chính trị “No Kings 10/18” một lần nữa cho thấy sức mạnh dữ dội và sức đề kháng mãnh liệt của nền dân chủ Mỹ, trong bối cảnh vô số bài báo và sách nghiên cứu đánh động liên tục về sự cáo chung của nền dân chủ Mỹ, trong đó có cuốn How Democracies Die của hai giáo sư Harvard Steven Levitsky và Daniel Ziblatt. Quyển sách trên kể vô số ví dụ về sự diệt vong của nền dân chủ, rằng chỉ rất ít trường hợp có thể kháng cự lại chủ nghĩa độc tài. Cựu đại sứ Mỹ tại Hungary từng viết một bài mang tựa “Tôi đã chứng kiến điều đó ở Hungary. Giờ nó đang xảy ra ở đây.” Tác giả Brian Klaas cảnh báo trên The Atlantic: “Nền dân chủ Mỹ đang chết dần.” Tuy nhiên, Mỹ khác với hầu hết quốc gia được nêu trong các công trình nghiên cứu về “cái chết của dân chủ.” Thái độ phản kháng trong thực tế đã ăn sâu vào máu người Mỹ. Cần nhấn mạnh, sự phản kháng của người dân ở các nước khác thường xuất phát từ một phong trào nhất định, ở một thời điểm nhất định và bắt nguồn từ sự kiện nhất định; trong khi đó, thái độ phản kháng với người Mỹ đã trở thành một phần của văn hóa Mỹ, của đời sống chính trị Mỹ, của thói quen sinh hoạt xã hội dân sự Mỹ. Gần như không quốc gia nào trên thế giới có thể so sánh với Mỹ về những yếu tố này. Hầu hết những quốc gia chuyển từ dân chủ sang dân chủ trá hình, hay chính xác hơn là độc tài toàn trị, chẳng hạn Nga, đều chứng kiến tình trạng giới lãnh đạo của họ là thủ phạm trong việc phá hủy nền dân chủ từ bên trong. Họ thực hiện điều đó một cách từ từ, từng bước, từ việc làm suy yếu các trụ cột của thể chế dân chủ, phá hoại nền báo chí tự do, đến việc lộng quyền, bóp nghẹt hệ thống tư pháp, trấn án xã hội dân sự đa nguyên… Và nghiêm trọng hơn hết là lũng đoạn hệ thống bầu cử. Ở một mức độ nào đó, tất cả điều đó đang xảy ra ở Mỹ, chỉ trong vài tháng. https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/10/No-King-02-2048x1153.jpg Biểu tình “No Kings” tại Washington DC ngày 18 Tháng Mười. (Hình: Trúc Phương/Người Việt) Tuy nhiên, bình tĩnh quan sát, có thể thấy rằng nền móng dân chủ Mỹ đang bị tấn công và bị xói lở nhưng nó cũng đang chống trả cực kỳ quyết liệt. Dù dân chủ Mỹ bị bắn thủng lỗ chỗ, tấm bia dân chủ Mỹ vẫn rất dày. Nó có thể bị xuyên thủng nhưng để hạ đổ hoàn toàn là điều cực kỳ không dễ dàng. Báo chí vẫn lên tiếng. Tòa án vẫn chặn lại nhiều sắc lệnh Tòa Bạch Ốc. Các tổ chức xã hội dân sự vẫn hoạt động dữ dội. Tại rất nhiều thành phố, người dân lao ra đường chặn các vụ bắt bớ của ICE… Và nhất là một số lớn người dân vẫn không thờ ơ và bỏ mặc. Trong chính trị, thái độ đối với thời cuộc của người dân là một trong những yếu tố lớn nhất quyết định vận mạng và sự an toàn chế độ hoặc nhà cầm quyền. Người Mỹ không chỉ nhận thức sự việc mà họ biết hành động từ nhận thức. Chính sự sợ hãi và lo lắng tột độ đã mang lại sức mạnh chống trả cho người Mỹ. Gần như chưa có dân tộc nào có “truyền thống” chống đối chính quyền dữ dội bằng dân Mỹ. Mỹ luôn được xem là đất nước non trẻ nhưng nền dân chủ Mỹ và sức mạnh của nó lại có bề dày lịch sử đáng kể nhất so với nhiều phần còn lại của thế giới. Cần để ý thêm rằng, chính cái gọi là sự chia rẽ của nước Mỹ như đang thấy lại là điều khiến cho mô hình độc tài tuyệt đối không bao giờ có thể hình thành. Để độc tài, chính thể cai trị phải nắm toàn bộ quyền lực, từ quyền kiểm soát tuyệt đối truyền thông đến cả “100%” dân số. Với Mỹ hiện tại cũng như trong tương lai, tham vọng đó là phi thực tế. Một khi một nửa nước Mỹ không đồng lòng, giận dữ bày tỏ bất mãn và sẵn sàng xuống đường gào thét phẫn nộ thì việc “làm vua một cõi” vĩnh viễn là giấc mơ hão huyền. Nói cách khác, sức mạnh cuối cùng của nền dân chủ Mỹ vẫn nằm ở người dân và thuộc về người dân. Nó giúp dân chủ Mỹ duy trì sức sống, ngay cả trong những thời khắc tưởng chừng chỉ có thể thoi thóp. Như học giả Erica Chenoweth (Đại Học Harvard) chỉ ra: khi 3.5% dân số tham gia biểu tình bất bạo động thì có đến 90% chế độ độc tài đổ nhào. Điều đó cho thấy sức mạnh của xã hội dân sự dữ dội như thế nào Biểu tình “No Kings” tại Washington DC ngày 18 Tháng Mười. (Hình: Trúc Phương/Người Việt) https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/10/No-King-03-2048x1153.jpg Khoảng bảy triệu người tham gia cuộc biểu tình “No Kings” vào ngày 18 Tháng Mười – tức 2.1% dân số Mỹ – là con số không phải không đáng quan tâm (chỉ riêng Washington, DC, tờ Wall Street Journal cho biết có hơn 200,000 người). Với người Mỹ và nước Mỹ, khi hàng triệu người xuống đường thì đó không chỉ là thái độ quyết liệt thể hiện sự bất mãn mà còn là thông điệp đánh động trực tiếp đến giới chính trị, rằng mọi thứ đang rất không ổn. Nó khiến mọi người phải nghĩ lại, phải cân nhắc có nên tiếp tục theo cách đang làm hay không, nên đứng trên con tàu đang chông chênh hay không, có nên hay ngưng tiếp tục huênh hoang bốc phét và bảo vệ thứ mà hàng triệu người dân đang nhìn bằng con mắt đầy nghi hoặc bởi họ chẳng thấy chút nào gọi là chính nghĩa trong đó. Ở Mỹ, việc làm cho người dân nghĩ rằng họ đang bị hất ra bên lề là một hành động tự sát chính trị. Nền dân chủ Mỹ, có thể bị miêu tả là “đang lụi tàn,” đang “bị tấn công từ mọi hướng” và “vỡ từng mảnh,”… nhưng đồng thời nó cũng đang chống trả dữ dội, bằng tất cả lý tưởng mà nhiều thế hệ đã vun đắp và kiến tạo nên. Nhìn những gì đang xảy ra ở Mỹ, không khỏi không liên tưởng đến Việt Nam. Nếu từng sống ở môi trường “ngụy dân chủ” như Việt Nam và theo dõi cách chính quyền cộng sản cai trị, mới thấy rằng nước Mỹ quá khác, dân chủ Mỹ quá khác và người dân Mỹ quá may mắn sống trong một đất nước mà tự do chưa bao giờ chết cho dù nó bị chà đạp như thế nào. Sự “giẫy chết kiểu Mỹ” còn lâu mới có thể được chứng kiến ở Việt Nam (cũng như ở những quốc gia có mô hình cai trị tương tự), nếu không nói là không bao giờ, ít nhất ở thế hệ chúng ta đang sống. Related Links: https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/10/TS-chu-tich-ha-vien-2048x1365.jpg Người biểu tình tham gia cuộc biểu tình “Không Vua” ở Chicago, Illinois, hôm Thứ Bảy, 18 Tháng Mười. (Hình: Daniel Boczarski/Getty Images for No Kings) https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/fe06/live/e6fca430-ac85-11f0-99ba-1b4195977470.jpg.webp The Donald Trump "baby blimp", which has become a common sight at protests over the years, made an appearance in Los Angeles https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/be81/live/aca9ea90-ac85-11f0-99ba-1b4195977470.jpg.webp Thousands of people filled Times Square in New York City https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/9fe8/live/8871edc0-ac59-11f0-ba75-093eca1ac29b.jpg.webp https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/38c8/live/72832d80-ac86-11f0-99ba-1b4195977470.jpg.webp https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/b99e/live/2f2b28a0-ac89-11f0-9ec9-b7f49338014e.jpg.webp https://ichef.bbci.co.uk/news/1536/cpsprodpb/fe28/live/0589cc30-ac85-11f0-99ba-1b4195977470.jpg.webp https://www.bbc.com/news/videos/cy7ekv3m2lmo Aerials show thousands attending No Kings protests across the US Huge crowds gathered to protest against President Donald Trump's policies in cities across the US - among them New York, Washington DC, Chicago and Miami. The No Kings coalition, which organisers describe as comprising roughly 300 groups, first gained prominence in June with nationwide demonstrations on Donald Trump's birthday that organisers said drew millions. Ahead of the demonstrations, Trump allies accused the protesters of being linked with the far-left Antifa movement, and condemned what they called "the hate America rally". https://www.bbc.com/news/articles/c93xgyp1zv4o