Tuesday, June 17, 2025

Đọc Tiểu Thuyết Của Tác Giả Hồ Biểu Chánh

Tác Phẩm Ái Tình Miếu, Thầy Thông Ngôn, Thiệt Giả Giả Thiệt, Bỏ Chồng, Bỏ Vợ, Con Nhà Giàu, Con Nhà Nghèo, Ông Cử, Hai Thà Lấy Vợ, Đoạn Tình, Tỉnh Mộng, Những Điều Nghe Thấy, Người Thất Chí, Kẻ Làm Người Chịu, Vì Nghĩa Vì Tình.... Những tác phẩm cuối đời được viết sau khi ông rút lui khỏi vai trò cố vấn chính phủ "Liên hiệp Pháp," chỉ tập trung vào viết văn và viết báo (những năm 1950) như Đoạn Tình, Tỉnh Mộng, Những Điều Nghe Thấy, Kẻ Làm Người Chịu, Vì Nghĩa Vì Tình (sequel/tiểu thuyết tiếp nối cho Kẻ Làm Người Chịu)...đều có xuất hiện nhân vật "chán đời," bất đắc chí, bị tâm thần hay trầm cảm đến tự tử vì ưu uất nặng.... Hồ Biểu Chánh chịu ảnh hưởng nhiều bởi các nhà văn lớn của Pháp, Nga, Anh, Trung Hoa cuối thế kỷ 18, thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 như Victor Hugo, Honoré de Balzac, Fyodor Dostoevskycách, Leo Tolstoy, Lu Xun/Lỗ Tấn, nhất là về ý thức bênh vực người cô thế, nghèo, phụ nữ bị áp bức, chống bất công xã hội, về cách tả chân, vẽ lại nếp sống và các cảnh đời thường trong xã hội của ông, rất sinh động, có duyên và chi tiết. Bối Cảnh Không gian bao trùm miền Nam, nhưng phần lớn tập trung vùng Mỹ tho, Tân an, Gò công, vùng lân cận thành phố Sài gòn, hoặc các tỉnh miền Tây Nam bộ như Cần thơ, Tây ninh, và ngay trung tâm Sài gòn. Thời gian trải dài từ những năm 1920, 1930, 1940, 1950 dưới chế độ Pháp thuộc. Văn tả cảnh: sống động, dựng lại cảnh thiên nhiên và nếp sinh hoạt của dân miền Nam thôn quê lẫn thành thị. Phản ảnh đời sống miền Nam dưới thời Pháp thuộc: đời sống tá điền, địa chủ, lao công, người cùnh đinh, lưu manh trong xã hội như ăn trộm, công nhân, tiểu thương, trí thức.... Nhân vật Đủ thành phần trong xã hội, từ thầy thông, thầy ký, giáo sư, kỹ sư/bác vật, quan lại như quan Kinh lý, đến thành phần giàu có, địa chủ, chủ phố lầu, chủ tiệm may, quan tước trong địa phương làng xã như Cai tổng, Hội đồng, Hương thân, Hương chủ, Hương sư....Thành phần lao động, cùng đinh trong xã hội như tá điền nghèo, cu li, bồi bàn, tài xế, phu kéo xe, người làm công trong gia đình giàu, thợ may, thợ sơn, trẻ em bán báo, gắn quảng cáo, người bán hàng rong, người bán cơm bình dân cho người lao động, đàn ông đàn bà già trẻ lớn bé v.v...thầy thông, thầy ký, giáo sư, kỹ sư/bác vật, bác sĩ, người thương lái, buôn bán lẻ, người ngoại quốc như "các chú" tức Chệt hay người gốc Hoa, người Ấn cho vay lấy lãi, chủ nợ, chủ vựa lúa người Việt, các ban đàn ca người Ma ní tức Phi luật tân, và ca nhi ở các cao lầu... Có vẻ như tác giả dùng đi dùng lại một số nhân vật hay mẫu nhân vật/motif hoặc reprtoire có sẵn trong đầu ông qua kinh nghiệm sống và giao tiếp, quan sát ngoài đời như thợ may, người có của hay quan chức trong làng hay tỉnh lỵ, thành phố, tá điền nghèo và chất phát, người có tài và có lương tri nhưng bất mãn xã hội hay bất đắc chí, vợ hoặc chồng bội tình bội nghĩa vì tiền và danh lợi.... Cốt Truyện Phản ánh cấu trúc xã hội nông thôn và thành thị miền Nam VN dưới thời Pháp thuộc, các quan hệ trong hôn nhân, gia đình, bạn bè, hàng xóm, làng xã, các xung đột về các giá trị văn hóa, cách sống cũ mới-tân học cựu học, Đông Tây, về triết lý sống, xung đột giữa người giàu nghèo, nam nữ, già trẻ, chủ tớ, triết lý Đạo Phật, ảnh hưởng lễ giáo của nhà Nho....Mang tính giáo dục quần chúng, củng cố đạo đức theo quan điểm truyền thống văn hóa VN, ảnh hưởng Phật giáo, Nho giáo/Khổng Mạnh....Phản ánh các sinh hoạt đời thường, hủ tục lẫn tập quán tốt....Tác phẩm nói lên các xung đột giằng co về luân lý đạo đức cũ Khổng Mạnh, đối lại với tư tưởng Tây phương phóng khoáng, giải phóng phụ nữ khỏi sự ép buộc thành kiến Nho giáo giữa con cái, cha mẹ, vợ chồng bạn bè...cùng các bất đồng về nhiều giá trị, quy định của gia đình, xã hội. Ngôn Ngữ Nam Việt đầu thế kỷ 20; thổ ngữ, phương ngữ các vùng miền Nam nông thôn cũng như thành thị. "Một số từ ngữ và thành ngữ, cách diễn đạt nay không còn dùng nữa, nếu không có chú thích người đọc ngay nay không thể hiểu như: "đi đinh"/tức đi làm việc, "bác vật" /kỹ sư, "để" /ly dị, "nôm" / cưới vợ giùm để che mắt thiên hạ; "đóng trăn" /trói hay còng tay, "bài sinh ý"/ giấy môn bài cho đăng ký buôn bán, mở tiệm, dịch vụ, "xe kéo"/ do người phu kéo xe hai bánh, "xe kiếng,"/tức xe kéo có kiếng.... Các Tác Phẩm Cuối Đời Các tác phẩm nhà văn HBC sáng tác những năm 1950s có kịch tính cao, tình tiết lâm ly,cách phân tích tâm lý con người phức tạp hơn nhiều so với các tác phẩm thời kỳ đầu những năm 1920-30.... https://www.youtube.com/watch?v=IG0VUicGT6c NHỮNG ĐIỀU NGHE THẤY. Tập 11 Tác giả Hồ Biểu Chánh. Người đọc: Thái Hoàng Phi Tập này có nói về tình hình SG trong những năm 1026-1936, 1942-1945 và sau 1945, thời kỳ thế chiến thứ 2 , Nhật rồi Anh, Pháp.... https://www.youtube.com/watch?v=-hHq7IuM17g NHỮNG ĐIỀU NGHE THẤY. Tập 14 Tác giả Hồ Biểu Chánh. Người đọc: Thái Hoàng Phi Tập này có nói nhiều về nền giáo dục ở Saì gòn Chợ lớn những năm 1940 mà thành phần nhà giàu hay cho con theo học. https://www.youtube.com/playlist?list=PLngu3qzvJ3g36dhBXc5xSNr5-6L3KIMJC NGƯỜI THẤT CHÍ. Tập 01. Tác giả: Hồ Biểu Chánh. Người đọc: Thái Hoàng Phi https://www.youtube.com/watch?v=Se1a99vqh_w&list=PLngu3qzvJ3g36dhBXc5xSNr5-6L3KIMJC&index=2 NGƯỜI THẤT CHÍ. Tập 02. Tác giả: Hồ Biểu Chánh. Người đọc: Thái Hoàng Phi https://www.youtube.com/watch?v=mJTfguWpXYM&list=PLngu3qzvJ3g36dhBXc5xSNr5-6L3KIMJC&index=3 NGƯỜI THẤT CHÍ. Tập 03. Tác giả: Hồ Biểu Chánh. Người đọc: Thái Hoàng Phi Đoạn Tình . Tác giả: Hồ Biểu Chánh. Người đọc: Thái Hoàng Phi https://www.youtube.com/watch?v=wrLqV4PycDI Đoạn Tình Tập 1 https://www.youtube.com/watch?v=21zKLdpQlZs Đoạn Tình Tập 2 https://www.youtube.com/watch?v=EkoBVFWrFn8 Đoạn Tình Tập 3 https://www.youtube.com/watch?v=yaOKt51YP_4 Đoạn Tình Tập 4 https://www.youtube.com/watch?v=p4cExpwzDyU Đoạn Tình Tập 5 TỈNH MỘNG Tác giả: Hồ Biểu Chánh. Người đọc: Thái Hoàng Phi https://www.youtube.com/watch?v=M3qXfvXpl8w Tập 1 https://www.youtube.com/watch?v=Gz87LV2epZM Tập 2 https://www.youtube.com/watch?v=HVyL61ScO9I Tập 3 https://www.youtube.com/watch?v=4V2FNqbXlaw Tập 4 Tiểu Sử Tác Giả Hồ Biểu Chánh (1884–1958), tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Ông sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc ấp Thành Nhất, xã Bình Xuân, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 73 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Sự nghiệp văn chương Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quý mến hơn tên tộc Hồ Văn Trung của ông. Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lại hơn 100 tác phẩm gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bản dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình sử, Kim cổ kỳ quan... đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ, cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là rất Nam Bộ, từ giọng văn đến miêu tả con người. Ông có phóng tác một số tiểu thuyết Pháp. Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam Bộ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.